Du lịch chậm – Hướng tiếp cận phát triển bền vững cho ngành du lịch.

ThS. KTS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt- Khoa Quy Hoạch, trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh (UAH), nguyet.nguyenthiminh@uah.edu.vn

Ngày nhận bài: 25/3/2025; Phản biện từ ngày 25/3/2025. Người phản biện: GS.TS. Dỗ Hậu. Ngày duyệt đăng: 06/4/2025.

Ngày nay, khi mọi lĩnh vực của nền kinh tế phát triển nhanh chóng và quá mức, đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và xã hội. Trong bối cảnh đó, trào lưu du lịch chậm đã xuất hiện. Du lịch chậm, với hành trình trải nghiệm sâu hơn giá trị đặc trưng của môi trường điểm đến là một cách tiếp cận hướng đến sự phát triển bền vững cho ngành du lịch.

Ảnh nguồn internet

Slow tourism – A sustainable development approach for tourism.

Abstract: Today, the world is facing serious consequences from climate change. Therefore, all sectors are promoting sustainable development, including tourism. The COVID-19 pandemic is an important moment for the tourism industry to reconsider its future development direction. The rapid and excessive economic development of industries and sectors has caused serious consequences for the environment and society. In which, tourism is also not immune to the wave of global development, from which the slow trend was born. Slow tourism began to appear, with a sustainable direction, rebalancing values, society, and environment before the commercial tourism factor. Slow tourism is considered a form of respecting the natural landscape, culture, and history of the destination, while also respecting the social environment of the local community.

The topic synthesizes documents related to the topic of slow tourism, maps out the concept of slow tourism and summarizes the content that brings values ​​of respecting and preserving the characteristics of the local economic development area, raising social awareness and protecting the environment. From there, helping future tourism planners and developers see the importance of applying slow tourism in locations with characteristics of natural landscapes and culture towards sustainable development.

Keywords: slow tourism, sustainable development.

Tóm tắt: Ngày nay, thế giới đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu. Do đó, tất cả các lĩnh vực đều đẩy mạnh phát triển theo hướng bền vững, trong đó có du lịch. Đại dịch COVID-19 là thời khắc quan trọng để ngành du lịch xem xét lại hướng phát triển trong tương lai. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng và quá mức của các ngành và các lĩnh vực đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và xã hội. Trong đó, du lịch cũng không tránh khỏi làn sóng phát triển toàn cầu, từ đó trào lưu chậm ra đời. Du lịch chậm bắt đầu xuất hiện, với hướng đi bền vững, cân bằng lại giá trị, xã hội, môi trường trước yếu tố thương mại du lịch. Du lịch chậm được xem là hình thức tôn trọng các giá trị cảnh quan thiên nhiên, văn hóa, lịch sử của điểm đến, đồng thời cũng tôn trọng môi trường xã hội của cộng đồng địa phương.

Đề tài tổng hợp từ các tài liệu liên quan đến chủ đề du lịch chậm, sơ đồ hóa khái niệm về du lịch chậm và đúc kết những nội dung mang lại những giá trị tôn trọng và giữ gìn đặc trưng của khu vực phát triển kinh tế địa phương, nâng cao ý thức xã hội và bảo vệ môi trường. Từ đó, giúp cho các nhà hoạch định và phát triển du lịch trong tương lai thấy được tầm quan trọng trong việc ứng dụng du lịch chậm tại các địa điểm có đặc trưng về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa hướng đến phát triển bền vững.

Từ khóa: du lịch chậm, phát triển bền vững.

  1. Tổng quan

Trước đại dịch COVID19, du lịch là một ngành phát triển mạnh ở hầu hết các nước trên thế giới. Do đó, bên cạnh các mặt tích cực về mặt kinh tế- xã hội, ngành du lịch còn phải đối mặt với một loạt vấn đề như tình trạng quá tải du lịch, làm gia tăng mức tiêu thụ năng lượng, nước, sản phẩm không thể tái chế…, gây mất cân bằng về các giá trị môi trường và di sản, đồng thời gia tăng tâm lý phản đối du lịch từ cộng đồng địa phương (Mandeep Mahendru và cộng sự, 2023).

Các hoạt động du lịch cũng đã gây ra một lượng khí thải nhà kính không nhỏ vào môi trường và là một trong những nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Trong đại dịch COVID19, hầu hết các hoạt động du lịch đều ngưng trệ trên thế giới và đây chính là thời khắc then chốt để ngành du lịch nhìn nhận lại hướng phát triển: một ranh giới cho việc phát triển theo hướng cũ, không chỉ gây tổn hại đến môi trường mà còn cả xã hội, hay thiết lập một hướng đi mới bền vững hơn cho du lịch. (Zanda Serdane và cộng sự, 2020).

Nhằm ứng phó với tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc sống hiện đại, hàng loạt lĩnh vực thay đổi theo trào lưu chậm để đạt được sự cân bằng trong cuộc sống, điển hình như thể thao chậm, cuộc sống, y học, kiến trúc, thiết kế, tiếp thị, trường học, nghệ thuật, trong đó có du lịch chậm (Jeannine Lehmann, 2022). Trước sự phát triển của công nghệ kỹ thuật trong kỷ nguyên mới, đây được xem là hình thức du lịch cân bằng lại giá trị xã hội, môi trường trước yếu tố thương mại, đề cao trải nghiệm văn hóa bản địa, thay vì chỉ biết về một điểm đến du lịch.

  1. Khái niệm Du lịch chậm

Xuất phát điểm của Du lịch chậm bắt nguồn từ trào lưu Thức ăn chậm (Slow Food) ở Ý do Carlo Petrini phát động vào năm 1986. Đây được xem như một phong trào phản đối Thức ăn nhanh (Fast Food), nhằm phát huy giữ gìn nét đặc trưng văn hóa ẩm thực (Francesc Fuste-Forne, 2023). Từ giá trị của ẩm thực được mở rộng sang môi trường và tạo thành một phong trào xã hội, phong trào này khuyến khích tạo ra các sản phẩm đặc trưng tại các điểm đến, đây như một thách thức với ngành công nghiệp hiện đại, khi mọi thứ đều trở nên toàn cầu hóa, nhanh và tiện lợi, thách thức cả về phương thức đi lại, do sự tăng tốc, nhu cầu di chuyển nhanh, tất cả đều được lập trình thời gian, lịch trình và thương mại hóa (Jeannine Lehmann, 2022). Vẫn còn khá ít nghiên cứu về khái niệm du lịch chậm, và có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch chậm trên thế giới. Dưới dây là một số khái niệm về du lịch chậm:

Theo Dickinson và Lumsdon (2010), du lịch chậm là một hình thức du lịch carbon thấp (low-carbon tourism), là cách khách du lịch sử dụng các phương thức di chuyển chậm bằng đường bộ để khám phá lịch sử, văn hóa, ẩm thực địa phương, và có ý thức với môi trường điểm đến. Tác giả nhận định du lịch chậm chú trọng đến cả trải nghiệm trong hành trình di chuyển của khách du lịch, điều này thường ít được quan tâm đối với du lịch thông thường.

Heitmann và cộng sự (2011) nhận định “Du lịch chậm là hình thức du lịch tôn trọng văn hóa, lịch sử và môi trường địa phương”, tận hưởng kỳ nghỉ chậm rãi để gắn kết, tương tác với cộng đồng địa phương.

Les M. Lumsdon & Peter McGrath (2011) tổng hợp các hướng tiếp cận của nhiều luồng tư tưởng khác nhau thành 4 luồng tư tưởng chính cho du lịch chậm: sự chậm rãi và giá trị của thời gian, tính địa phương, phương thức vận chuyển và trải nghiệm của di chuyển, ý thức về môi trường. Họ nhấn mạnh về hình thức di chuyển chậm và các hoạt động chậm trong quá trình trải nghiệm du lịch.

Zanda Serdane và cộng sự (2020) cho rằng đây không phải là một loại hình du lịch, mà là cách thức du khách trải nghiệm sâu sắc và tác động tích cực đến cộng đồng, địa điểm và văn hóa tại điểm đến du lịch, với tư duy chậm là nền tảng.

Du lịch chậm không chỉ đơn thuần là đến thăm địa điểm mà còn là thời gian để khách du lịch chiêm nghiệm đào sâu khám phá các giá trị về bản sắc di sản văn hóa, thiên nhiên của điểm đến, xây dựng mối liên hệ với cộng đồng địa phương (Frances Fuste- Forne, 2023).

Theo tổng hợp trong bài nghiên cứu của Elylul Balaban và Krisztina Keller (2024), bản chất của du lịch chậm là ý thức về môi trường, hướng đến sử dụng các loại phương tiện giao thông bền vững, giảm thải carbon trong suốt hành trình trải nghiệm điểm đến và đặc biệt là kéo dài thời gian lưu trú để khám phá văn hóa địa phương.

Như vậy, Du lịch chậm là hình thức khuyến khích du khách trải nghiệm du lịch thông qua phương tiện di chuyển chậm tại địa phương để khám phá sâu sắc các giá trị di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên đặc trưng, giảm tiêu thụ theo hướng toàn cầu, tăng tiêu thụ sản phẩm địa phương, gắn kết với cư dân bản địa tại điểm đến du lịch (Hình 1).

 

Hình 1. Sơ đồ tổng hợp khái niệm Du lịch chậm.

  1. Giá trị của du lịch chậm

3.1 Tôn trọng và giữ gìn đặc trưng của khu vực, phát triển kinh tế địa phương

3.1.1 Cảnh quan điểm đến

Trải nghiệm du lịch chậm không thể thiếu các yếu tố về di sản, cảnh quan và truyền thống, là những yếu tố then chốt hình thành nên đặc trưng điểm đến (Jeannine Lehmann, 2022, Francesc Fuste-Forne, 2023). Do đó, sự đa dạng về cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo có giá trị văn hóa, lịch sử của cảnh quan điểm đến như là: nguồn nước tự nhiên (biển, núi, sông ngòi, kênh rạch, …), mảng xanh tự nhiên (rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn, …), hang động, làng, phố cổ, khu sản xuất nghề truyền thống, … là thế mạnh cần được giữ gìn để phát triển du lịch chậm.

Ngoài ra, cảnh quan điểm đến cần có tính chân xác, các yếu tố bản địa, văn hóa, bản sắc, là lối sống tại thời điểm du khách trải nghiệm, những gì đã cũ và không còn tồn tại, nhưng được mô phỏng để thu hút và phát triển du lịch đều làm mất đi tính đặc trưng của khu vực (Zanda Serdane và cộng sự, 2020, Francesc Fuste-Forne, 2023). Đặc tính này đem đến một sức hút đối với du khách, một điểm đến càng giữ được giá trị thực bao nhiêu, càng thu hút khách du lịch bấy nhiêu.

3.1.2 Cư dân bản địa

Một trong các động lực của du khách theo hướng du lịch chậm là tương tác xã hội, kết nối với người dân địa phương. Du khách được sống, được giao lưu, tham gia lễ hội, học cách nấu ăn, ngôn ngữ địa phương, và quan trọng là học cách tôn trọng người dân địa phương hơn (Jo Guiver, Peter McGrath, 2016, Gokce Ozdemir và Duygu Celebi, 2018). Sự thân thiện của cộng đồng địa phương là tiêu chí quan trọng giúp tương tác xã hội diễn ra dễ dàng và đem đến sự gắn kết giữa du khách với người dân địa phương.

Du lịch chậm cần phải có cư dân bản địa, tạo điều kiện để hình thành môi trường địa phương cho điểm đến.

Do đó, để phát triển du lịch chậm, cần phải có cư dân bản địa, cần tạo điều kiện để cộng đồng sống và làm việc, hình thành môi trường địa phương cho điểm đến du lịch chậm. Theo Ana Mrda và cộng sự (2017), cảnh quan du lịch, nơi có sự thu hút đối với khách du lịch, là không gian sống của người dân địa phương với các chức năng khác nhau như sản xuất, giao tiếp, học tập…mà du lịch chỉ là một phần trong các chức năng đó. Cảnh quan du lịch được tạo ra bằng chính những giá trị tự nhiên, văn hoá…địa phương nhằm phục vụ cho người dân và chính các giá trị đặc trưng này đem đến sự hấp dẫn cho khách du lịch. Những giá trị địa phương mất đi có nghĩa du lịch cũng không thể khai thác.

3.1.3 Ẩm thực địa phương

Trải nghiệm ẩm thực địa phương là một trong những hoạt động ưa thích của khách du lịch chậm. Dịch vụ ăn uống khai thác dựa trên thế mạnh từ các quán ăn địa phương, đây là loại hình bảo tồn ẩm thực truyền thống, … Ngoài sự phong phú và đa dạng của ẩm thực địa phương, cách thức tạo ra món ăn, lịch sử của món ăn, cũng như nguồn nguyên liệu được cung cấp từ đâu, cũng là những trải nghiệm có giá trị, thu hút khách du lịch chậm. (Damir Kresic và Matina Gjurasic, 2022, Francesc Fuste-Forne, 2023). Do đó, du lịch chậm vừa đề cao giá trị của ẩm thực truyền thống, vừa giữ gìn và phát triển các cửa hàng ăn uống địa phương, và đây cũng là cách giữ gìn các giá trị đặc trưng của khu vực.

Một ưu thế khác của việc phát triển ẩm thực địa phương là đem đến kinh tế trực tiếp cho người dân mà không cần thông qua bên thứ hai, hay còn gọi là các tập đoàn toàn cầu, giúp phát triển kinh tế địa phương.

3.1.4 Sản xuất địa phương

Theo Heitmann, S. và cộng sự (2011) về du lịch chậm, giá trị của nghề truyền thống điển hình là quá trình sản xuất nông nghiệp thông qua chiến lược phát triển nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ phương thức và nghề truyền thống. Các hoạt động mua sắm cũng ưu tiên sử dụng các sản phẩm bản địa (sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật…) được sản xuất bởi chính cộng đồng địa phương. Đây là những nội dung đề cao giá trị đặc trưng của khu vực, giữ gìn và phát triển các khu vực sản xuất truyền thống, sản phẩm địa phương cũng là cách thức quảng bá hình ảnh của khu vực với thế giới.

Việc duy trì ngành nghề truyền thống cung cấp việc làm cho người dân, việc tiêu thụ sản phẩm địa phương của khách du lịch tạo ra doanh thu trực tiếp cho người dân, hai yếu tố này giúp phát triển kinh tế địa phương (Jeannine Lehmann, 2022).

Do đó, sản xuất địa phương vừa là nguồn lực để phát triển kinh tế địa phương, vừa là đặc trưng của khu vực cần được gìn giữ và duy trì để phát triển du lịch chậm.

3.1.5 Cơ sở lưu trú

Khác với hình thức khách sạn, các khu nghỉ dưỡng cao cấp, khách du lịch được sắp xếp ở theo nhóm được lựa chọn bởi các công ty lữ hành, hình thức lưu trú trong du lịch chậm cũng mang tính trải nghiệm văn hóa địa phương, khách du lịch có xu hướng lựa chọn nơi ở có đặc điểm và địa điểm mang tính địa phương, truyền thống, có thể tương tác với cư dân bản địa. Các dạng lưu trú thường được khách du lịch lựa chọn là nơi có thể ở lâu, chi phí tương đối thấp, và để có thể cảm nhận cuộc sống của người dân bản địa, đó là nhà dân, nhà khách (Wei Cao, 2013). Do đó, nơi lưu trú của du lịch chậm thường có không gian sống đặc trưng, gần gũi với cộng đồng địa phương.

Hình 2. Tôn trọng và giữ gìn đặc trưng của khu vực, phát triển kinh tế địa phương

3.2 Giá trị bảo vệ di sản và môi trường điểm đến

3.2.1 Khách du lịch chậm (slow tourist)

Theo kết quả khảo sát của Gokce Ozdemir và Duygu Celebi (2018), một trong những động lực của khách du lịch chậm là tìm kiếm sự mới lạ, do đó khách du lịch chậm không chỉ thích trải nghiệm mà còn tôn trọng và giữ gìn các giá trị đặc trưng về cảnh quan tự nhiên, văn hóa bản địa của môi trường điểm đến.

Ngoài ra, một trong những động lực khác của Khách du lịch chậm là ý thức về môi trường, đề cao và tôn trọng các giá trị bền vững thông qua việc quan tâm chất lượng môi trường và việc sử dụng phương tiện di chuyển giảm phát thải carbon tại điểm đến (Gokce Ozdemir và Duyu Celebi, 2018).

Bên cạnh đó, khách du lịch chậm cũng có sở thích tương tác xã hội với cộng đồng địa phương và khách du lịch khác, điều này thường không phổ biến đối với du lịch đại chúng (Gokce Ozdemir và cộng sự, 2018).  Việc tương tác thông qua các cuộc gặp gỡ tại nơi lưu trú, các chuyến tham quan hướng dẫn của chính người dân địa phương, các hoạt động văn hóa của cộng đồng (Jeannine Lehmann, 2022). Đây cũng là đối tượng thích các món ăn địa phương, thích tham gia hoạt động liên quan đến cộng đồng địa phương (Heimann và cộng sự, 2011).

3.2.2 Phương tiện di chuyển

Khách du lịch chậm có khuynh hướng lựa chọn phương thức di chuyển chậm, ít hoặc không gây ô nhiễm môi trường (đi bộ, xe đạp, phương tiện công cộng địa phương ít phát thải carbon…) trong thời gian lưu trú tại địa điểm du lịch chậm. Hình thức di chuyển này giúp du khách dễ dàng tham gia vào các hoạt động địa phương, gắn kết cộng đồng, tận hưởng chậm rãi cảnh quan điểm đến. Ngoài ra, các phương thức truyền thống (thuyền, bè, …) ít hoặc không phát thải carbon và đang được cộng đồng sử dụng làm phương tiện di chuyển chính, cũng được bàn luận và cân nhắc sử dụng trong du lịch chậm (Heitmann và cộng sự, 2011, Wei Cao, 2013). Với các phương thức di chuyển trên, đem đến giá trị bảo vệ môi trường điểm đến.

3.2.3 Thời gian

Với du lịch đại chúng, thời gian tham quan các địa điểm du lịch được sắp xếp theo một lịch trình cụ thể, dày đặc nhằm đạt được số lượng hơn chất lượng. Thời gian trong du lịch chậm được khách du lịch sử dụng một cách có ý thức, tự chủ hơn, với mong muốn có thể trải nghiệm điểm đến một cách chậm rãi và chất lượng. Khách du lịch chậm tận hưởng từng khoảnh khắc tại điểm đến với nhịp độ của mỗi người, đạp xe và tận hưởng cảnh quan thiên nhiên, văn hóa, đi bộ và gặp gỡ người dân địa phương, giúp hiểu về văn hóa, môi trường địa phương, và thời gian trải nghiệm trở nên thú vị và đầy ý nghĩa hơn (Les M. Lumsdon & Peter McGrath, 2011). Chính việc chậm lại trong thời gian trải nghiệm, giúp du khách hiểu và gắn kết sâu sắc con người và cảnh quan điểm đến, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, thời gian mùa vụ cũng là một nội dung rất đáng quan tâm, khía cạnh này cũng đem đến giá trị bảo vệ tính đặc trưng cho lãnh thổ. Nội dung này thể hiện qua sản phẩm thực phẩm theo mùa, tạo nên tính đặc trưng theo mùa, ví dụ các sản phẩm nông nghiệp theo mùa (vườn cây ăn trái, hoa màu, …) (Alessandro Scandiffio, 2021). Nội dung này đề cao giá trị của cảnh quan nông nghiệp theo mùa, vừa có tính đặc trưng, vừa bảo vệ môi trường các khu vực sản xuất nông nghiệp.

Hình 3. Giá trị bảo vệ di sản, môi trường điểm đến

  1. Du lịch chậm trong bối cảnh du lịch tại Việt Nam

4.1 Thực trạng tại Việt Nam

Việt Nam còn khá nhiều điểm đến có cảnh quan tự nhiên, di sản văn hóa lâu đời có giá trị đặc trưng. Theo thống kê từ báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về Chỉ số Phát triển Du lịch và Lữ hành (TTDI: Travel & Tourism Development Index, 2024) năm 2024, chỉ số này được đánh giá từ 119 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, một trong các chỉ số đạt thứ hạng tốt của ngành du lịch Việt Nam là Chỉ số Tài nguyên thiên nhiên (hạng 26/119), tài nguyên văn hóa (hạng 28/119). Điều này cho thấy cảnh quan điểm đến là một trong những lợi thế lớn nhất của Việt Nam trong phát triển du lịch.

Tuy nhiên, một số nơi đang bị khai thác để phát triển du lịch quá mức, gây ra sự mất cân bằng về giá trị sinh thái tự nhiên và mất bản sắc địa phương, môi trường khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng. Một số thực trạng chung của việc khai thác du lịch quá mức tại các khu vực này:

+ Diện tích mặt nước, cây xanh tự nhiên bị giảm do xây dựng các dịch vụ du lịch (hạ tầng giao thông, cơ sở lưu trú, khu giải trí, khu thương mại…)

+ Khách du lịch tập trung quá đông trong thành phố quy mô nhỏ, người dân địa phương mất đi môi trường sống, một bộ phận người dân di cư sang nơi khác dẫn đến thành phần cư dân bản địa giảm, một phần có sự mâu thuẫn với du khách.

+ Các khu vực sản xuất truyền thống bị khai thác quá mức, trở thành một hình thức kinh doanh du lịch, ảnh hưởng đến môi trường. Việc không tôn trọng thời gian mùa vụ, là một trong những ví dụ điển hình, bằng cách sử dụng hóa chất để tăng sản lượng của thực phẩm trái mùa nhằm cung ứng cho nhu cầu khách du lịch, gây nên những tác hại đối với môi trường, đồng thời mất bản sắc và tính đặc trưng tự nhiên của khu vực.

+ Nghề truyền thống bị thay đổi và dần bị thay thế bởi dịch vụ du lịch. Điển hình cho thực trạng này là các khu vực sản xuất truyền thống chuyển đổi thành các khu nghỉ dưỡng, khu du lịch, vui chơi giải trí…, người dân chuyển đổi từ nghề truyền thống sang nghề dịch vụ du lịch. Dịch vụ du lịch trở thành kinh tế chính của khu vực, gây ra sự mất cân bằng về kinh tế vào thời điểm không có khách du lịch, và mất đi tính đặc trưng của khu vực.

+ Các khu vui chơi, giải trí được mô phỏng từ các hình tượng khắp nơi trên thế giới, được xây dựng phục vụ cho thị hiếu số đông khách du lịch nhưng không phù hợp với môi trường, cảnh quan điểm đến, mất đi nét đặc trưng, tính chân xác của cảnh quan, hay còn gọi là ô nhiễm phong cảnh.

+ Các cơ sở lưu trú được xây dựng với quy mô to, không phù hợp với kiến trúc bản địa, cảnh quan đặc trưng địa phương.

+ Xe máy, xe công nghệ, xe khách theo đoàn là những phương tiện hiện được khách du lịch sử dụng phổ biến tại các điểm đến du lịch nói chung ở Việt Nam, đối với các khu vực khách du lịch đông, đồng nghĩa với lượng khí thải Carbon ra môi trường của các phương tiện cũng gia tăng và còn ảnh hưởng đến việc lưu thông của người dân địa phương trên các tuyến đường.

  • Một số định hướng chung theo hướng chuyển đổi du lịch chậm

+ Giữ gìn và bảo tồn các giá trị đặc trưng, tính chân xác của cảnh quan điểm đến, từ cảnh quan thiên nhiên đến cảnh quan nhân tạo.

+ Quan tâm thành phần cốt lõi ở đây là cư dân bản địa: phát triển các dịch vụ tiện ích phục vụ cho cộng đồng địa phương: y tế, giáo dục, không gian công cộng, …

+ Tạo điều kiện cho các ngành nghề truyền thống, cơ sở sản xuất địa phương được duy trì và phát triển. Xem đây là nguồn kinh tế chính của người dân địa phương, không bị lệ thuộc chính vào kinh tế dịch vụ du lịch.

+ Phát triển hạ tầng cho phương tiện di chuyển chậm, đảm bảo môi trường đi bộ, xe đạp an toàn, thân thiện, phát triển phương tiện địa phương ít gây ô nhiễm môi trường.

+ Cơ sở lưu trú cần được nghiên cứu thiết kế dựa trên kiến trúc bản địa, sử dụng vật liệu địa phương, phù hợp với cảnh quan, quy mô vừa và nhỏ, khuyến khích hình thức ở cùng cộng đồng địa phương, vì đây cũng là một cách hạn chế xây dựng, giảm sử dụng tài nguyên, cũng như tiêu thụ năng lượng, giảm tác động đến môi trường.

+ Cần xem xét giới hạn quy mô khách du lịch trong khả năng đáp ứng của khu vực, vì ảnh hưởng đến mức tiêu thụ năng lượng, cung cấp dịch vụ, không gây ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân địa phương.

  1. Kết luận

Từ các khái niệm “Du lịch chậm” trên thế giới được tổng hợp, đây là một dạng thức trải nghiệm văn hóa, khám phá các giá trị thuộc về bản địa, nên tính đặc trưng, tính chân xác của khu vực là yếu tố hết sức cần thiết và quan trọng. Với những nội dung được đúc kết mang giá trị bảo tồn văn hóa, địa phương, bảo vệ môi trường, việc ứng dụng du lịch chậm cho những khu vực có giá trị về môi trường cảnh quan tự nhiên, nét đặc trưng văn hóa bản địa, ngành nghề truyền thống, còn giữ được tính chân xác… là một giải pháp ý nghĩa và hết sức quan trọng đối với ngành du lịch Việt Nam trước áp lực của sự phát triển toàn cầu, đồng thời đem đến sự tương tác xã hội tích cực giữa cư dân bản địa và khách du lịch.

Tài liệu tham khảo

  1. Alessandro Scandiffio, 2021, Parametric Definition of slow tourism Itineraries for experiencing seasonal landscapes. Application of Sentinel – 2 Imagery to the Rural Paddy-rice landscape in northern Italy.
  2. Ana Mrda, Hrvoje Caric, Bojana Bojanic Obad Scitaroci, 2017, Integrating Heritage and Sustainable Urban Development by engaginf diverse Communities for Heritage Management.
  3. Damir Kresic và Matina Gjurasic, 2022, Slow Tourism as an Immersive Travel Experience: A bibliometric Analysis.
  4. Dickinson, J. E., & Lumsdon, L., 2010, Slow travel and tourism. London: Earthscan.
  5. Eylul Balaban và Krisztina Keller, 2024, A systematic literature review of slow tourism.
  6. Francesc Fuste-Forne, 2023, A slow tourist in the Basque Coast Geopark
  7. Gokce Ozdemir and Duygu Celebi, 2018, Exploring dimensions of slow tourism motivation.
  8. Heitmann, S., Robinson, P., & Povey, G., 2011, Slow food, slow cities and slow tourism. In P. Robinson, S. Heitmann, & P. Dieke (Eds.), Research themes for tourism (pp. 114–127).
  9. Jeannine Lehmann, 2022, Definition and best practice of slow tourism: the definition and best practice of slow tourism: a benchmark approach and potential analysis in the Case of Ecuador.
  10. Jo Guiver, Peter McGrath, 2016, Slow tourism: Exploring the discourses.
  11. Les M. Lumsdon & Peter McGrath, 2011, Developing a conceptual framework for slow travel: a grounded theory approach.
  12. Mandeep Mahendru và cộng sự, 2023, From over-tourism to under-tourism via COVID-19: lessons for sustainable Tourism management.
  13. Wei Cao, 2013, A Study on Slow Tourism Concept, Activities and Case for Bangkok as a Slow Tourism Destination.
  14. Zanda Serdane, Agata Maccarrone-Eaglen & Sudi Sharifi, 2020, Conceptualising slow tourism: A perspective from Latvia.
  15. Travel & Tourism Development Index, 2024.

 

Bài viết cũ hơn