ThS.KS. Bạch Ngọc Tùng* –Công ty cổ phần công nghệ Xây dựng ACUD Việt Nam
Developing eco-industrial parks in Vietnam – Optimal solution for circular economic development strategy
Summary: Vietnam, with its current rapid development of a large number of industrial parks, needs to convert them into eco-industrial parks in order to achieve economic, environmental, and social efficiency on an industrial park scale. This is an optimal solution to implement a circular economy instead of the traditional linear economy. Moreover, industrial parks are becoming the criteria for foreign direct investors who aim for sustainable development, economic benefits alongside responsibilities towards the community and society. Eco-industrial parks will significantly contribute to efforts in coping with climate change, mobilizing resources from the private sector for green industrial solutions, ensuring energy security, and demonstrating the political determination of the government in fulfilling commitments to sustainable development.
Keywords: industrial park, eco-industrial par
Việt Nam với tốc độ phát triển số lượng lớn các Khu công nghiệp (KCN) như hiện nay, việc chuyển đổi thành Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là cần thiết, Đây là giải pháp tối ưu, nhằm thực hiện kinh tế tuần hoàn thay thế kinh tế tuyến tính truyền thống. Hơn nữa, KCNST đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. KCNST sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, đảm bảo an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững.
1. Mở đầu
Việt Nam với hơn 30 năm hình thành và phát triển, các khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN) trở thành nhân tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước đồng thời gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần mở rộng thị trường quốc tế, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho người lao động.
Quá trình công nghiệp hóa và phát triển các KCN với tốc độ nhanh đang đặt ra những thách thức về môi trường (nước, đất, không khí, tiếng ồn…), sử dụng tài nguyên (năng lượng, nước và nguyên vật liệu). Tuy nhiên, việc thực hiện giảm chất thải và khí thải ở quy mô doanh nghiệp và tái chế, tái sử dụng sản phẩm phụ giữa các doanh nghiệp luôn chậm hơn quá trình mở rộng và phát triển các KCN.
Để tăng tính bền vững của sản xuất công nghiệp, giảm ô nhiễm môi trường, đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội của các KCN, mô hình EIP (Eco-industrial park) – mô hình Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) đã ra đời. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng mô hình các khu công nghiệp sinh thái, bao gồm mức độ phối hợp và hợp tác giữa các ngành hay còn gọi là “cộng sinh công nghiệp,” trong đó năng lượng và vật liệu do một ngành sản xuất được tiêu thụ làm đầu vào cho ngành hay doanh nghiệp khác.
KCNST là cộng đồng của các doanh nghiệp (DN) sản xuất và cung cấp dịch vụ nhằm cùng nhau hướng tới sự nâng cao hiệu quả kinh tế và môi trường thông qua sự hợp tác quản lỷ tài nguyên môi trường, bao gồm năng lượng, nước, vật liệu và các tài nguyên khác (trên nguyên tắc lợi ích tập thể ). Sự thành lập KCNST nhằm thực hiện một mô hình thống nhất về trao đổi sản phẩm phụ hoặc tổ chức mạng lưới thực hiện sự trao đổi đó, hay còn được gọi là cộng đồng công nghiệp. Trên giai đoạn phát triển tiếp theo, các cụm doanh nghiệp chế biến xuất hiện, trong đó họ sử dụng chất thải và các sản phẩm phụ làm nguyên liệu đầu vào. Sau đó, các doanh nghiệp sử dụng công nghệ định hướng sinh thái tiên tiến, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường… cũng được chuyển vào KCNST. KCNST hiện đại được xây dựng xung quanh một khái niệm sinh thái cơ bản, ví dụ khái niệm về sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả chất thải sản xuất và tiêu dùng. Khu phức hợp nhiều chức năng cũng được thành lập, trong đó ngoài khu công nghiệp còn có cả các cơ sở thương mại và nhà ở.
Tại Việt Nam với tốc độ phát triển số lượng lớn các KCN như hiện nay, việc chuyển đổi thành KCN sinh thái tại Việt Nam là cần thiết nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, môi trường, xã hội ở quy mô KCN. Đây là giải pháp tối ưu, nhằm thực hiện kinh tế tuần hoàn thay thế kinh tế tuyến tính truyền thống. Hơn nữa, KCNST đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. KCNST sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, đảm bảo an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững.
2. Một số mô hình KCNST trên thế giới và lợi ích đạt được
2.1. Một số mô hình KCNST trên thế giới
Phát triển KCNST được hình thành trên thế giới từ những năm 1990 và KCNST điển hình phát triển sớm nhất là KCNST Kalunborgd tại Đan Mạch, tiếp nối theo đó với nhiều quốc gia nghiên cứu áp dụng như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan… Năm 2020 có khoảng 250 khu công nghiệp sinh thái trên toàn cầu (năm 2000 chỉ có khoảng chưa tới 50 KCNST). Dưới đây là một số thông tin về KCNST điển hình trên thế giới:
a) Khu công nghiệp Kalundborg tại Đan Mạch
KCNST Kalundborg, Đan Mạch được xem là một ví dụ điển hình để hình thành hệ thống lý luận sinh thái học công nghiệp và các KCNST trên thế giới. Thành phần chính tham gia vào KCN này bao gồm: Nhà máy nhiệt điện lớn nhất tại Đan Mạch – Nhà máy điện Asnaes; Nhà máy lọc dầu Staltoil, Nhà máy sản xuất dược phẩm và enzym Novo Nordisk; Nhà máy sản xuất ván trát tường Gyproc – nhà máy lớn nhất vùng Scandinavia, đô thị Kaludborg, phân phối nước, điện cho 20.000 người dân. Sự cộng sinh đã phát triển qua nhiều năm bao gồm các đối tác từ các huyện khác, cũng như nông trại. Các công ty tham gia trao đổi nguyên liệu và năng lượng vì lợi ích chung, trên cơ sở đó phế thải từ một công ty này có thể được sử dụng như là đầu vào chi phí thấp cho công ty khác. Mô hình trao đổi chất giữa các nhà máy trong KCN này được miêu tả trong sơ đồ dưới đây.
Những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho sự hình thành quan hệ cộng sinh trong KCN Kalundborg bao gồm: Sự phù hợp giữa các ngành công nghiệp trên phương diện “Trao đổi chất thải”; Khoảng cách (về vị trí địa lý giữa các nhà máy không quá lớn; Mỗi nhà máy đều năm được thông tin liên quan đến các nhà máy khác trong KCN; Động cơ thúc đẩy các nhà máy tham gia vào KCNST là sự phát triển kinh tế bền vững; Sự phối hợp giữa các nhà máy là trên tình thần tự nguyện và phù hợp với quy định của cơ ban chức năng.
- b) Khu công nghiệp Guifang ở Quảng Đông – Trung Quốc
Vùng Quảng Đông ở phía Nam Trung Quốc là nguồn mía lớn nhất, sản xuất ra hơn 40% sản lượng đường của cả nước. Chi phí sản xuất đường của Quảng Đông là khá cao, hầu hết các nhà máu tinh chế đường không tái chế các chất thải của mình. Điều này làm họ mất đi nguồn thu nhập thứ hai và thải ra một lượng lớn chất thải vào không khí, nước và đất.
Tập đoàn Guigang được thành lập với tư cách là một đơn vị nhà nước sản xuất đường mía vào năm 1954. Khởi đầu là một nhà máy đường thông thường, nhưng qua nhiều năm, nó ngày càng thể hiện nhiều sự hợp lực hơn khi các cơ sở bổ sung được xây dựng để biến chất thải thành nguyên liệu thô cho các quy trình mới. Là khu công nghiệp sinh thái quốc gia đầu tiên được Trung Quốc thực hiện vào năm 2001, ngày nay tập đoàn này bao gồm một tập hợp các doanh nghiệp có trụ sở tại Guigang chia sẻ một số dòng tài nguyên và năng lượng dưới sự quản lý doanh nghiệp chung; Tổng cộng đến năm 2008, tập đoàn đã phát triển năng lực sản xuất lên 150 triệu tấn đường, 150 triệu tấn bột giấy và 150 triêu tấn giấy, 10 triệu tấn etanol, 30 triệu tấn sản xuất canxi cacbonat, 85 triệu tấn kiềm và 30 triệu tấn phân bón, với hai chuỗi giá trị chính, như minh họa trong dưới. Với quy trình sản xuất đường, được liên kết với một cơ sở sản xuất etanol, tuần hoàn chất thải từ nhà máy sản xuất ethanol được chuyển đổi thành phân bón và tái chế trở lại trang trại trồng mía.
Chuỗi liên kết chính còn lại liên quan đến giấy, bắt đầu từ mía nghiền (bã mía) làm nguyên liệu thô, chuyển đổi thành bột giấy, sau đó được biến thành giấy và bán cho nền kinh tế rộng lớn hơn. Từ năm 1998, tập đoàn bắt đầu đi vào hoạt động sử dụng bùn lọc (sau khi sấy khô) được tạo ra từ quá trình tinh luyện đường làm nguyên liệu sản xuất xi măng, tạo ra chuỗi giá trị mới. Ngoài ra, bã mía còn được tái chế làm nhiên liệu để sản xuất nhiệt và điện, được sử dụng trong tất cả các quy trình công nghiệp khác. Khi các doanh nghiệp này mở rộng, tập đoàn cũng mở rộng chuỗi giá trị của mình sang nền kinh tế xung quanh. Đây là bản chất của sự phát triển kinh tế tuần hoàn.
Mô hình phát triển hệ sinh thái công nghiệp Guigang ở Quảng Đông – Trung Quốc
- c) Pingdingshan Coal Mining Group
Tập đoàn khai thác than Pingdingshan (gọi đơn giản là Pingmei) được thành lập vào năm 1955, là mỏ than quy mô lớn đầu tiên sau cuộc cách mạng năm 1949 của Trung Quốc.Công ty này hoạt động rất năng suất, nhưng trong quá trình hoạt động, nó đã tích tụ những đống than phế thải với số lượng tương đương. lên tới gần 54 triệu tấn và chiếm diện tích 2,66 km2 – cộng với việc thải ra mỗi năm 2 triệu tấn than đá, 0,5 triệu tấn than nhớt và 0,2 triệu tấn tro bay.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất này gây ra tình trạng sụt lún đất trên diện rộng và phát thải khí độc hại và nước thải. Bắt đầu từ những năm 1980, công ty bắt đầu thực hiện các biện pháp tái chế và các hoạt động xuyên dòng và hạ nguồn để tận dụng những chất thải này. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, công ty đã thành lập một doanh nghiệp vật liệu xây dựng mới dựa trên việc sử dụng than đá, tro bay và gangue than để sản xuất xi măng gangue, xi măng tro bay và khối bê tông tro bay, với kế hoạch mở rộng khía cạnh kinh doanh này (xem hình dưới). Những sáng kiến này thể hiện sự cải thiện đáng kể về hiệu quả sinh thái. Tất nhiên, carbon dioxide vẫn đang được thải ra – nhưng tất cả các chất gây ô nhiễm khác hiện đang được tái sử dụng trong các chuỗi giá trị mới để sản xuất sản phẩm mới.
1.1. Lợi ích đạt được thông qua áp dụng mô hình KCNST
Trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn việc áp dụng mô hình KCNST, có thể thấy rằng lợi ích chính của KCNST được thể hiện như sau:
- a) KCNST góp phần giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên và giảm tác động đến môi trường: Giảm chi phí năng lượng và vật liệu tại từng cơ sở sản xuất riêng biệt và trên phạm vi cả KCNST; nâng cao hiệu quả sử dụng các loại nguyên vật liệu; giảm lượng khí thải và chất thải thải ra môi trường đối với từng cơ sở sản xuất riêng biệt và trên phạm vi cả KCNST; giảm chi phí sản xuất thông qua việc thiết lập các liên kết cộng đồng trong phạm vi KCNST và ngoài phạm vi này.
- b) KCNST mang lại hiệu quả lợi ích kinh tế: Tăng thêm thu nhập cho tất cả các chủ thể tham gia hợp tác công nghiệp và tiết kiệm chi phí thông qua sử dụng hiệu quả nguồn lực (tiết kiệm năng lượng, vật liệu, quản lý chất thải hiệu quả hơn, tuân thủ các yêu cầu quy định tại Luật Môi trường);
Giảm sự phụ thuộc vào thị trường loại tài nguyên không tái tạo và phải nhập khẩu; giảm rủi ro về sức khoẻ và an toàn; tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường cung cấp sản phẩm và dịch vụ “xanh” đang ngày càng được mở rộng; nâng cao khả năng thích ứng và sự linh hoạt của doanh nghiệp đối với những thay đổi về quản lý thông qua sự quản lý năng động của các KCNST; cải thiện hình ảnh trong cộng đồng của doanh nghiệp và của KCNST xét về phương diện tổng thể.
- c) KCNST góp phần tạo dựng phát triển kinh tế bền vững: Sự thành lập các KCNST tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của kinh tế khu vực thông qua sự khuyến khích đổi mới và đa dạng hóa hoạt động kinh tế ở cấp địa phương và khu vực; các chiến lược đổi mới sinh thái giúp giảm sự phụ thuộc của khu vực vào các nguồn tài nguyên không tái tạo được, do vậy nâng cao tính bền vững trước tình trạng thiếu nguồn cung cấp tài nguyên.
2. Khái quát quá trình hình thành và xu hướng phát triển các KCN tại Việt Nam
2.1. Khái quát quá trình hình thành các khu công nghiệp
Ngày nhận bài 28/11/2023; Phản biện: TS,Trương Văn Quảng; Ngày duyệt đăng: 15/12/2023