PGS.TS.KTS. Lê Thanh Sơn
Tóm tắt: Thủ pháp tạo hình là cách thức để hiện thực hóa một tác phẩm nghệ thuật. Trong lĩnh vực kiến trúc từ xưa đến nay, các nhà thiết kế luôn nỗ lực tìm kiếm những thủ pháp tạo hình riêng biệt, nhằm tạo nên những công trình không chỉ mang tính thẩm mỹ mà còn thể hiện được dấu ấn cá nhân. Kết quả là, các thủ pháp tạo hình khác nhau đã xuất hiện để tạo nên diện mạo của kiến trúc trong các giai đoạn lịch sử. Theo hành trình phát triển của kiến trúc có thể ghi nhận các thủ pháp tạo hình với năm thiên hướng: 1) mô phỏng hình ảnh; 2) tổ hợp, bố cục, tỉ lệ; 3) hình học kỉ hà; 4) chiết trung; 5) giải cấu trúc.
Từ khóa: hình thức, ngôn ngữ, thủ pháp, tạo hình.
Abstract:Form-making is a method to perform an art work. In architecture throughout history, designers have always strived to find out distintive form-making methods in order to create buildings which have been not only aesthetic but also expressing personal impression. As a result, several different form-making methods have emerged that help to establish a variety of architectural styles, tendencies during historical periods. According to the development of architecture, it is considered that there are five form-making methods: 1) image-based; 2) composition, layout, proportion; 3) geometry; 4) eclectic; 5) deconstruction.
Keywords: form, architectural language, method, form-making.
Hình 1. Đầu thức cột Corinthian mô phỏng hình ảnh hoa và lá cây phiên thảo
- Thiên hướng mô phỏng hình ảnh
Khởi nguồn của nghệ thuật tạo hình nói chung và kiến trúc nói riêng thường dựa trên sự quan sát và mô tả những hình thức, hình ảnh có thực trong thế giới tự nhiên. Những dấu tích “tả thực” nguyên sơ nhất về các loài động vật lớn được tìm thấy trong các hang động ở Lascaux tại vùng Tây Nam nước Pháp. Theo ước tính, chúng đã xuất hiện cách nay khoảng 16.000 năm, tức là từ rất lâu trước khi các nền nghệ thuật Ai Cập, Hy Lạp… được hình thành.
Vào thời Ai Cập cổ đại, hình thức đầu cột trong các đền thờ thần Mặt trời chủ yếu là sao chép hình ảnh sẵn có trong tự nhiên như: mô phỏng thực vật (plant style) bằng sự cách điệu hình ảnh của hoa sen, lá cọ… thành các motif đặc trưng; hoặc mô phỏng hình ảnh con người (non plant style) để tượng trưng cho các vị thần trong thế giới vĩnh hằng.
Tương tự, đầu của các cột Corinthian, Composite xuất hiện trong thời kỳ văn hóa Hy – La cũng mô phỏng hình ảnh của hoa và lá cây phiên thảo (acanthus). Trên các diềm mái (frieze), tường hồi (pediment) của các kiến trúc Hy – La thường được gắn điêu khắc hình tượng con người, động vật, diễn tả lại những khung cảnh lễ hội, sinh hoạt xã hội và chiến trận… [Hình 1].
Như vậy, tả thực (mimesis) được xem như thủ pháp tạo hình sơ khai nhất, bắt nguồn từ hành vi quan sát và ghi nhận đặc điểm của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và đời sống. Sau đó là quá trình sao chép, mô phỏng hoặc cách điệu để chuyển tải một cách chân thực nhất những ý tưởng ghi nhận được thành các tác phẩm nghệ thuật – kiến trúc. Có thể nhận thấy, khuynh hướng tả thực đã chiếm lĩnh tư duy của giới thiết kế trong hàng nghìn năm, minh chứng bằng sự hiện diện rất phổ biến của các chạm nổi (phù điêu), điêu khắc tượng tròn mang tính tả thực trong kiến trúc thời Cổ và Trung đại như là một phong cách trang trí hữu hiệu.
Thời kỳ Hậu – Hiện đại, thủ pháp tả thực đã bị “dung tục hóa” trên những kiến trúc kiểu “con vịt”. Đây là cách đặt tên để chế giễu việc phóng to “một cách thô thiển” hình ảnh của con vịt hay cái giỏ, chiếc giày thành những công trình như The Big Duck Building, Longaberger Headquarters… Chúng bị đả kích bởi hình thức tả thực “lố bịch” và chỉ biểu đạt cho một ý nghĩa duy nhất, phục vụ cho mục đích tiếp thị và thương mại. Từ đó cho thấy, tả thưc chưa bao giờ là một thủ pháp dễ nắm bắt trong nghệ thuật tạo hình. Nó đòi hỏi sự tinh tế và tinh thần cầu thị của kiến trúc sư, hơn là việc phóng to và sao chép đơn thuần.
Kể từ khi có sự xuất hiện của trường phái Lập thể, Trừu tượng và Chủ nghĩa Hiện đại, khuynh hướng tả thực thường xuyên phải hứng chịu sự công kích và bị cho là lỗi thời. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngày nay vẫn có những công trình với đường nét được sao chép chân thực hình ảnh của tự nhiên nhưng vẫn rất đặc sắc và mang tính nghệ thuật. Ví dụ như ý tưởng mô phỏng hình dáng con sao biển trong Beijing Daxing International Airport của Zaha Hadid, hay thủ pháp diễn tả những đường nét hoa sen để tạo nên hình thức của Lotus Temple [Hình 2].
Hình 2. Beijing Daxing International Airport
Dựa trên những gợi ý của nghệ thuật Cổ điển, các KTS đã phát triển và thường xuyên sử dụng ẩn dụ (metaphor) như một trong những thủ pháp tạo hình ưa thích. Sáng tác theo cách thức ẩn dụ nghĩa là vay mượn, sử dụng một hình thức khác để biểu đạt cho những nội dung hoặc ý nghĩa nào đó trong tác phẩm. Ví dụ, cặp hình vuông – tròn được sử dụng để ẩn dụ cho nội dung hoặc ý nghĩa liên quan đến khái niệm âm – dương, đất – trời, cái – đực, cũng như biểu đạt cho ý niệm về vũ trụ quan trong văn hóa Á Đông.
Những pho tượng Hy – La không đơn thuần là sự miêu tả tài tình tính chất chân thực, sống động cơ thể của các vị thần và con người mà còn ẩn dụ cho tinh thần nhân văn, hướng đến sự hài hòa và cái đẹp lý tưởng. Như vậy, ẩn dụ cũng là một thủ pháp tạo hình hữu hiệu để nâng vẻ đẹp của một hình thức cụ thể lên một chiều kích khác của tinh thần cao cả trong nghệ thuật.
Opera Sydney được xem là biểu tượng văn hóa của nước Úc, có hình thức gợi lên hình ảnh của những cánh buồm no gió. TWA Terminal được tạo hình như đôi cánh chim khổng lồ đang dang trộng trên bầu trời và khơi gợi cảm giác bâng khuâng của hành khách trước những hành trình vượt đại dương mênh mông [Hình 3].
Hình 3. TWA Terminal khơi gợi hình ảnh đôi cánh chim dang rộng trên bầu trời
Như vậy, một tác phẩm được cho là ẩn dụ thành công khi các KTS chỉ chọn lọc và đặc tả một số đường nét tiêu biểu lấy cảm hứng từ những hình ảnh cụ thể để tạo nên hình thức mới, chứ không tả thực hay sao chép nguyên bản. Mục đích là hướng đến sự khơi gợi, tạo nên tính đa nghĩa và biểu trưng văn hóa cho kiến trúc.
Tóm lại, tạo hình mô phỏng theo hình ảnh là một thủ pháp được sử dụng rất phổ biến trong các thời kỳ kiến trúc với ba cấp độ: mô phỏng chân phương hoặc dung tục, mô phỏng cách điệu và mô phỏng ẩn dụ.
- Thiên hướng tổ hợp, bố cục, tỷ lệ
Cho đến ngày nay, tổ hợp, bố cục, tỉ lệ luôn là bài học “giáo đầu” nhưng có ý nghĩa quan trọng trong các chương trình giảng dạy nghệ thuật và kiến trúc. Đối với mỗi thủ pháp tổ hợp, bố cục hay tỉ lệ khác nhau sẽ tạo nên những hiệu ứng thẩm mỹ và ngôn ngữ kiến trúc riêng biệt. Đó cũng chính là đặc điểm để nhận diện phong cách của một thời kỳ hoặc một tác giả, tác phẩm tạo hình.
Nhìn chung thì có hai hệ thống các phương thức, thủ thuật đã được xây dựng thành những qui ước cho việc tạo hình kiến trúc trong hầu hết các giai đoạn lịch sử, đó là chuẩn tắc (rule) và chuẩn mực (principle). Những nguyên tắc này gần như là bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính chuẩn mực và chính thống cho các công trình kiến trúc, đặc biệt trong thời kỳ Cổ và Trung đại.
Hai chuẩn tắc cơ bản thường được sử dụng trong các kiến trúc Ai Cập cổ đại là:
- Tổ hợp khối có qui mô, kích thước đồ sộ, lấn át tầm vóc con người
- Trục đối xứng và bố cục đăng đối
Các ngôi đền thờ thần Mặt trời ở Ai Cập luôn có bố cục đăng đối, tổ hợp phát triển dựa trên trục đối xứng và có tính khép kín với nhiều lớp tường dày. Sự thay đổi cao trình giữa nền và trần, những hàng cột to lớn được chạm khắc chằng chịt… được ứng dụng để tạo nên những không gian thần bí, có tính áp chế đối với con người khi dần bước sâu vào bên trong [Hình 4].
Thực tế lịch sử cho thấy mặt bằng các nhà thờ Trung cổ ở châu Âu cũng có bố cục, cấu trúc không gian tương tự với các đền thờ Ai Cập. Như vậy, những chuẩn tắc tổ hợp mà hai nền nghệ thuật này lựa chọn là có tính khách quan và phổ quát, nhằm tạo nên những tính chất trang nghiêm, vẻ hoành tráng và tính đường bệ. Những tính chất đó gắn bó hữu cơ với ý niệm về tính thiêng hoặc sự siêu phàm hơn là cảm nhận về cái đẹp đơn thuần.
Hình 4. Pylons Luxor – Trục đối xứng và bố cục đăng đối là chuẩn tắc của kiến trúc Ai Cập cổ đại
Tính đối xứng cũng là chuẩn tắc quen thuộc được sử dụng trong hầu hết các nền nghệ thuật từ Hy Lạp cho tới Phục hưng và đạt đến đỉnh cao trong các nền nghệ thuật sau đó như Chủ nghĩa Kinh điển (Classicism) ở Pháp – thế kỷ XVII và Chủ nghĩa Tân Cổ điển (Neo – Classicism) ở Mỹ, châu Âu và các thuộc địa – thế kỷ XIX. Ngoài hai chuẩn tắc đã có từ thời cổ đại, Chủ nghĩa Kinh điển khởi nguồn từ triều đình Louis XIV còn bổ sung bốn chuẩn tắc mới như:
- Khai thác tinh hoa của kiến trúc cổ điển Hy Lạp – La Mã, trong đó thức cột được coi là nhân tố quan trọng nhất, vì đó là cơ sở để tạo nên bố cục và các tổ hợp không gian kiến trúc.
- Giải pháp bố cục kiến trúc tuân thủ những niêm luật chặt chẽ. Chiều rộng hoặc chiều cao mặt đứng kiến trúc được phân chia thành những bộ phận hoặc khối khác nhau với số lượng đoạn – khối kiến trúc được chia theo tương quan: đặc – rỗng, lồi – lõm phải luôn là số lẻ, để khối trung tâm nằm trên trục chính và đảm bảo tính đối xứng.
- Thần thoại Hy – La là motif trang trí chủ đạo.
- Nghệ thuật hoa viên sử dụng bố cục đối xứng và những hình thức kỷ hà, cây xanh được cắt xén ngay ngắn, gọn gàng. Những hình thể tự nhiên gần như bị loại bỏ hoặc đặt ở vị trí thứ yếu [Hình 5].
Như vậy, chuẩn tắc là thủ pháp tạo hình chủ yếu dựa trên tổ hợp, bố cục, và hướng đến việc diễn đạt những mục tiêu liên quan đến ý niệm.
Hình 5. East Wing Louvre – Thức cột Cổ điển, trục đối xứng và các motif thần thoại Hy – La là chuẩn tắc trong nghệ thuật thế kỷ XVII của Chủ nghĩa Kinh điển ở Pháp
Trong khi đó, chuẩn mực được thiết lập dựa trên những phát hiện của con người về các cấu trúc trong tự nhiên, có tính qui luật chặt chẽ và có thể định lượng bằng toán học. Vào thời Hy – La, các chuẩn mực nghệ thuật cơ bản đã được hình thành và sử dụng rộng rãi, bao gồm ba hệ thống tỉ lệ:
- Mối tương quan của tỉ lệ cơ thể con người
- Tỉ lệ vàng
- Năm thức cột: Doric, Toscan, Ionic, Corinthian, Composite
Trong quan điểm của người Hy Lạp cổ đại, cơ thể con người có một vẻ đẹp và mối quan hệ tỉ lệ hoàn hảo. Từ đó hình thành nên chuẩn mực liên quan đến cấu trúc hình thể con người.
Nguyên tắc tỉ lệ vàng cũng được xây dựng như một chuẩn mực thẩm mỹ, nhưng lại cho thấy mối tương quan giữa các đại lượng toán học mà không có sự liên quan đến cấu trúc hình thể con người.
Hệ thống tỉ lệ cuối cùng và quan trọng nhất để tạo nên vẻ đẹp của motif Cổ điển chính là thức cột. Chúng được xác lập bằng cách lấy bán kính đáy cột (M – module) làm đơn vị đo lường cơ sở. Từ thông số M, kích thước của những bộ phận còn lại trên mặt đứng kiến trúc cũng được xác định trên hệ thống tỉ lệ có tính chuẩn mực gọi là thức – yếu tố tạo nên vẻ đẹp phổ quát, trong sáng và hài hòa cho kiến trúc Cổ điển [Hình 6].
Hình 9. Villa la Rotonda có tổ hợp khối và bố cục có sự tương đồng với đền thờ Pantheon
Cùng với sự kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật Cổ điển, các nhà thiết kế Phục Hưng đã bổ sung hai chuẩn mực nghệ thuật mới liên quan đến hệ thống tỉ lệ, bao gồm:
- Dãy số Fibonacci;
- Hình chữ nhật vàng (Tiết diện vàng).
Vào đầu thế kỷ XX, những nguyên tắc nghiêm ngặt về tỉ lệ đã thống trị nghệ thuật tạo hình phương Tây hơn 2000 năm trước khi bị quan niệm tự do của Chủ nghĩa Hiện đại thay thế. Le Corbusier đề xuất hệ thống tỉ lệ với tên gọi Modul’ Or (Thang số Vàng), dựa trên mối tương quan về tỉ lệ giữa không gian kiến trúc và kích thước của cơ thể con người. Mong muốn của ông chính là tạo nên một chuẩn mực mới mang tính công nghiệp hóa của kiến trúc Hiện đại. Mặc dù về sau chúng đã không còn là một lựa chọn tối ưu, nhưng vẫn luôn được xem là nền tảng nhất trong thủ pháp tạo hình kiến trúc.
Ý nghĩa của chuẩn mực trong tạo hình chính là đáp ứng những nguyên tắc liên quan đến hệ thống tỉ lệ, qua đó giúp hình thành nên hình thức hài hòa và đẹp mắt của kiến trúc. Đó cũng là sự diễn đạt cho những mục tiêu liên quan tới cái đẹp thị cảm (cảm thụ vẻ đẹp trực quan) – còn gọi là mỹ thuật (fine art).
Thiên hướng hình học kỷ hà:
Sự lên ngôi của hội họa Lập thể, Trừu tượng và Chủ nghĩa Công năng là những yếu tố cốt lõi làm thay đổi khuynh hướng tư duy của các KTS Hiện đại. Họ cho rằng kiến trúc không nên mang nặng tính chất trang trí Cổ điển mà cần hướng đến sự hợp lý, đơn giản trong cấu trúc và “thuần khiết” trong ngôn ngữ hình thức.
Được phát biểu vào năm 1926, Năm điểm trong kiến trúc (Five Points in Architecture) của Le Corbusier đã trở thành một trong những lý luận và phương châm thực hành quan trọng của Kiến trúc Hiện đại. Với phát biểu này, Le Corbusier đã khước từ những chuẩn tắc, chuẩn mực quen thuộc, đề cao ngôn ngữ hình học kỷ hà, với những đường thẳng, góc vuông và phương thức tổ hợp khối theo bố cục tự do.
Trong thiết kế của Villa Savoye, một khối hộp bê tông trắng đặc, nặng được đặt trên 16 cây cột mảnh đã phá vỡ nguyên tắc trên nhẹ – dưới nặng của kiến trúc Cổ điển. Mặt bằng có bố cục tự do, bất đối xứng với những dãy cửa sổ hình chữ nhật băng ngang mặt đứng của công trình. Kết cấu mái bằng với vườn trên mái, được nhấn mạnh bằng khối cấu trúc có hình thức trừu tượng. Với thiết kế thuần khiết và mang đậm tính Lập thể, có thể xem đây là một trong những công trình tiêu biểu nhất, đánh dấu cho sự xuất hiện của thủ pháp tạo hình theo nguyên tắc hình học kỷ hà.
Tương tự, mặt bằng Falling Water cũng có bố cục tự do, phát triển theo công năng và không gian lưu thoát (flowing space). Hình khối kiến trúc vươn doãi, trải dài theo địa hình bằng những nét nằm ngang tĩnh lặng. Ngôn ngữ hình học kỷ hà của công trình đã cộng hưởng, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên trong sự gắn bó một cách “Hữu cơ”, đây cũng là danh xưng độc đáo của trường phái này.
Nếu như ở những thời kỳ trước, thủ pháp tạo hình thường là những nguyên tắc bất thành văn, không được ghi chép mà chỉ được lưu truyền và khám phá thông qua những công trình hiện hữu thì ở thời kỳ Hiện đại có rất nhiều phương châm đã được phát biểu thành lời. Từng câu nói tuy ngắn gọn, nhưng sự hàm súc của nó toát lên tư duy và thủ pháp tạo hình của cá nhân nhà thiết kế.
Sự ưu tiên cho yếu tố sử dụng là nguyên tắc tối quan trọng của Chủ nghĩa Công năng và được diễn đạt bằng những châm ngôn như “hình thức đi theo công năng”, “hình thức và công năng là một”, “nhà là cái máy để ở”… Tất cả đều cho thấy tính duy lý trong tư duy tạo hình của các KTS Hiện đại.
Đỉnh cao của khuynh hướng tư duy này chính là phương châm “ít tức là nhiều” (Less is more) của Mies van der Rohe. Farnsworth House, Seagram Building là những biểu hiện rõ ràng nhất cho tinh thần duy lý cực đoan, giản lược triệt để các chi tiết dư thừa (không phục vụ cho công năng) trên hình thức. Đó là những khối hộp bọc kính có hình thức tối giản, với hệ kết cấu thép và khung kính không được che đậy mà trở thành yếu tố tạo hình của mặt đứng kiến trúc. Mies cho rằng hình thức và công năng nên là một cấu trúc thống nhất và cần “đơn giản, chính xác, trật tự, hoàn thiện” như một “cỗ máy” của thời đại cơ khí [Hình 7].
Tiếp nối những thành công của Chủ nghĩa Hiện đại, vào cuối thế kỷ 20, một số KTS đã phát triển ngôn ngữ hình học kỷ hà theo những khuynh hướng cách tân, với tên gọi Chủ nghĩa Hiện đại mới. Đặc điểm của xu hướng kiến trúc này chứa đựng nhiều dấu ấn cá nhân và giàu nét trữ tình hơn so với những tạo hình có phần khô khan và hàn lâm của phong cách Quốc tế.
Nghĩa trang Moderna được thiết kế bởi Aldo Rossi có thể xem như kiến trúc tiêu biểu của xu hướng Hiện đại mới – Cổ điển. Ông đã tìm kiếm bản chất và đặc tính hình học cơ bản trong các hình khối kiến trúc cổ xưa để tạo nên ngôn ngữ thiết kế riêng biệt, vừa mang tính duy lý, vừa chứa đựng giá trị truyền thống. Tuy sử dụng ngôn ngữ Hiện đại, nhưng với tổ chức mặt bằng tổng thể và hình khối đối xứng nghiêm ngặt qua trục chính, công trình đã gợi nhắc đến những nguyên tắc chặt chẽ của kiến trúc La Mã cổ đại.
Sự gia tăng tính tự do trong tổ hợp khối bằng cách bổ sung những đường cong tuyến tính bên cạnh các hình dạng kỉ hà đã cho phép hình thức kiến trúc có thể “vượt quá công năng”. Qua đó định hình nên xu hướng Hiện đại mới – Lãng mạn, nổi bật với những thiết kế của Christian Portzamparc.
Trong khi đó, mặc dù vẫn vận dụng nhuần nhuyễn các niêm luật của chủ nghĩa Thuần khiết, nhưng các kiến trúc của xu hướng Hiện đại mới – Hiện tượng như Khu tưởng niệm các nạn nhân Do Thái ở Châu Âu, Nhà thờ trên nước, Chichu Art Museum, Lee Ufan Museum đã cho thấy sự thay đổi trong tư duy của các KTS. Họ chủ đích chọn những hình thức kỷ hà và trừu tượng để có thể giảm trừ tất cả những tạp hưởng để hướng công chúng tập trung vào những cảm thụ đa giác quan hơn là sự cảm thụ thẩm mỹ thị giác như thường gặp. Như vậy, mặc dù vẫn sử dụng những ngôn ngữ kỷ hà và trừu tượng, hình thức kiến trúc lúc này đã đối lập với công năng; hay nói cách khác, hình thức đã bỏ qua công năng thuần túy để hướng tới cái cao cả của ý niệm. Đây chính là một bước ngoặt mới của kiến trúc Đương đại với sự xuất hiện của Chủ nghĩa Ý niệm và Kiến trúc Hiện tượng học [Hình 8].
Hình 8. Nhà thờ trên nước có ngôn ngữ kiến trúc trừu tượng nhưng bỏ qua công năng thuần túy để hướng tới diễn đạt ý niệm
- Thiên hướng chiết trung
Thuật ngữ “Chủ nghĩa Chiết trung” (Eclecticism) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, ἐκλεκτικός (eklektikos) nghĩa là “sự lựa chọn tốt nhất”; ἐκλεκτός (eklektos) nghĩa là “nhặt ra, chọn ra” [5]. Theo cách hiểu chung, chiết trung là cách thức tiếp cận mà không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt theo một hình mẫu hoặc nguyên tắc nhất định.
Từ điển Cambrigde định nghĩa “Chủ nghĩa Chiết trung” là “các phương pháp, quan niệm, ý tưởng… mang tính chiết trung kết hợp bất cứ thứ gì có vẻ tốt nhất hoặc hữu ích nhất từ nhiều lĩnh vực hoặc hệ thống khác nhau, thay vì tuân theo một hệ thống duy nhất.” (Methods, beliefs, ideas, etc. that are eclectic combine whatever seem the best or most useful things from many different areas or systems, rather than following a single system) [4].
Trong lịch sử nhân loại, văn hóa luôn phát triển trong sự học hỏi lẫn nhau, bởi vì không có một nền văn hóa nào là tự túc. Tương tự với văn hóa, tính chiết trung cũng có mặt trong hầu hết các phong cách kiến trúc. Nhìn chung, mỗi phong cách đi sau đều vay mượn từ một hoặc nhiều kiểu mẫu đi trước, bao gồm sự lựa chọn và kế thừa các yếu tố tạo hình hoặc những ý tưởng, quan niệm văn hóa.
Chiết trung hình thức, còn được gọi là Chủ nghĩa Thủ pháp (Stylisticism), là sự kết hợp các yếu tố tạo hình truyền thống và hiện đại, Đông và Tây để tạo nên hình thức mới so với những kiểu mẫu đang tồn tại. Ví dụ, thiết kế của Villa la Rotonda được lấy cảm hứng từ hình ảnh của ngôi đền Pantheon, phản ánh qua những nét tương đồng trong tổ hợp khối, cách thức bố cục và sự hài hòa giữa chi tiết với tổng thể. Florence Cathedral cho thấy sự kết hợp của ngôn ngữ Cổ điển và Gothic. Lối vào của Basilica of Sant’Andrea lại được tạo hình theo phong cách Khải hoàn môn La Mã… Phục Hưng là giai đoạn văn hóa được ca ngợi chủ yếu về phương diện Chủ nghĩa Nhân văn, trong khi nền kiến trúc của nó phát triển chủ yếu dựa trên Chủ nghĩa Thủ pháp, tức là về phương diện sáng tạo có tính chiết trung, còn ít đột phá. Đặc điểm của chiết trung hình thức chính là sự pha trộn nhiều yếu tố, phong cách, ý tưởng có nguồn gốc khác nhau mà không cần tuân theo những quy ước cụ thể [Hình 9]. Mục tiêu là để tạo nên một hình thức mới tuy phong phú, nhưng khá phức tạp như luận điểm nổi tiếng của Robert Venturi về hiện tượng văn hóa trong kiến trúc.
Hình 9. Villa la Rotonda có tổ hợp khối và bố cục có sự tương đồng với đền thờ Pantheon
Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Hậu – Hiện đại, chiết trung mới thực sự trở thành một trong những thủ pháp tạo hình quan trọng. Với quan niệm chiết trung như một cách thức ẩn dụ văn hóa, nó không chỉ được xem như một công cụ tạo hình đơn thuần mà còn là một cách thức tạo nghĩa. Nghĩa là, song song với việc trích dẫn những yếu tố tạo hình truyền thống, các KTS đã cài cắm, ẩn dụ các lớp mã văn hóa để tạo nên tính đa nghĩa và cấu trúc thống nhất giữa hình thức – nội dung của kiến trúc.
Venturi House của Robert Venturi có hình thức vừa phức tạp lại vừa đơn giản, với các yếu tố mở và đóng, nhỏ và lớn, tốt và xấu đồng tồn tại. Thủ pháp vay mượn những đường nét của kiểu mẫu nhà ở vùng ngoại ô nước Ý, sử dụng một hình cuốn mảnh mai để “nhại lại” kiểu trang trí nhấn mạnh lối vào chính của motif Cổ điển và bố cục bất qui tắc những ô cửa hình chữ nhật đã biểu đạt cho quan điểm về tính mâu thuẫn và nhập nhằng trong kiến trúc. Venturi cho rằng kiến trúc không nên tồn tại đơn thuần như một vật thể thuần khiết mà nên là sự đồng tồn tại của các giá trị, bên cạnh đó cần duy trì mối liên kết giữa kiến trúc với bối cảnh lịch sử và văn hóa truyền thống [3].
Tương tự, những biểu hiện của xu hướng Chiết trung cũng được tìm thấy trong kiến trúc Nhật Bản Hiện đại, với các KTS tiêu biểu như Arata Isozaki, Kisho Kurokawa, Kengo Kuma…
Ở Museum of Modern Art Wakayama, Kisho Kurokawa đã sử dụng thủ pháp phóng to hình ảnh của chiếc đèn đá, tạo hình những lớp mái chồng diêm theo hình dáng đảo ngược và bố cục chúng một cách nhịp nhàng trên mặt tiền. Hình thức cách điệu cổng Torii ở Nagoya Art Museum hay hình ảnh mái chùa Nishi Hongaji gợi nhớ thời kỳ văn hóa Edo trên mặt tiền National Bunraku Theater cũng là những ví dụ về việc sử dụng thủ pháp chiết trung như một cách thức ẩn dụ. Có thể nhận thấy, Kurokawa đã vay mượn các yếu tố tạo hình truyền thống để tạo nên lớp nghĩa văn hóa cho các công trình kiến trúc [Hình 10].
Hình 10. Thủ pháp Chiết trung trong Museum of Modern Art Wakayama với những lớp mái chồng diêm theo hình dáng đảo ngược và hình ảnh phóng to của chiếc đèn đá
Thiên hướng giải cấu trúc
Sự phủ định phong cách có trước là điều kiện tất yếu để hình thành những mô thức kiến trúc mới cho các thời kỳ tiếp theo. Tương tự như mối quan hệ giữa Cổ điển và Hiện đại, tính cấu trúc chặt chẽ và trật tự của ngôn ngữ hình học kỷ hà sau khi đạt đến đỉnh cao đã vấp phải những sự chỉ trích và chống đối của các KTS đương đại, chẳng hạn sự xuất hiện của tư tưởng Giải cấu trúc. Trong xu hướng này, bên cạnh việc giải tỏa tính khuôn mẫu về hình thức, các KTS còn nới lỏng mối quan hệ giữa hình thức và chức năng. Lớp vỏ kiến trúc không còn phát triển dựa trên công năng mà được tạo hình độc lập. Trong một số trường hợp, dây chuyền công năng còn được điều chỉnh để nương theo sự uốn lượn và bay bổng của những hình thức Giải cấu trúc.
Cơ sở để xem xét Giải cấu trúc như một thủ pháp tạo hình độc lập chính là sự khác biệt về công cụ và ngôn ngữ tạo hình. Ở thời kỳ Đương đại, máy tính và các chương trình thuật toán chuyên biệt đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các KTS. Những nguyên tắc tạo hình về tổ hợp, bố cục, tỉ lệ cũng như tính tầng bậc đã bị phá bỏ và được thay thế bằng những hình khối phi cấu trúc, hình học phi Euclid và đường cong phi tuyến tính. Cho đến thời điểm hiện tại, ba công cụ trợ lực để tạo nên những hình thức Giải cấu trúc gồm: hình học Fractal, thuật toán Parametric và hình học Topology.
Biểu hiện đặc trưng của ngôn ngữ hình học Fractal là những nét gãy, đường xéo, góc nhọn… được lập trình bằng thuật toán ma trận. Trong Bảo tàng Do Thái, thủ pháp phân mảnh, chắp vá những mảnh vụn của ngôi sao David và tạo hình những vết cắt trên lớp vỏ bao che của Daniel Libeskind đã có sự trùng phùng từ hình thức đến nội dung, tạo nên hiệu ứng cảm nhận đa giác quan mạnh mẽ cho công chúng [Hình].
Tạo hình theo nguyên tắc Tham số – Parametricism là việc cung cấp thông tin đầu vào và sử dụng thuật toán để tùy biến các thông số như số lượng, kích thước, khoảng cách… để tạo ra những hình thức mới với ngôn ngữ hình học phi Euclid, theo ý đồ và trí tưởng tượng của nhà thiết kế. Ví dụ, Zaha Hadid đã thiết kế Heydar Aliyev Centre, Dongdaemun Design Plaza… với những hình khối bay bổng và có sự chuyển tiếp mềm mại, mang đến cảm giác kiến trúc như đang hóa lỏng hay tan chảy. Các diện phẳng và bề mặt uốn lượn đa chiều có sự trùng khớp với nhau, tạo nên tính bất ngờ trong tổ chức không gian với sự chuyển hóa giữa các trạng thái đóng – mở, cao – thấp đầy linh hoạt [Hình 11].
Hình 11. Dongdaemun Design Plaza
Tổ hợp khối theo phương thức truyền thống là sự thêm bớt hoặc kết hợp các hình khối cơ bản của hình học Euclide để đạt được những dạng thức như mong muốn. Tương tự như hình học Fractal hay Parametricism, Topology cũng là một công cụ tạo hình bằng thuật toán, trợ giúp cho nhà thiết kế trong việc giải cấu trúc những tổ hợp khối Euclid. Chẳng hạn, bằng cách thực hiện các phép biến đổi liên tục như gấp, uốn, vặn xoắn và kéo giãn, Daniel Libeskind đã tạo nên những nếp gấp linh hoạt, đa chiều của công trình 18 Turn mà vẫn giữ được những đường nét mang ngôn ngữ hình học Euclid ban đầu [Hình 12].
Hình 12. 18 Turn
Không thể phủ nhận, sức mạnh của công nghệ đã góp phần mang đến những hình thức táo bạo, mới mẻ cho xu hướng Giải cấu trúc. Tuy nhiên, suy cho cùng, nghệ thuật – kiến trúc vẫn luôn là những hoạt động dựa trên sự sáng tạo và tư duy của con người, vì vậy, máy tính và thuật toán chỉ nên được xem như những công cụ hỗ trợ, giúp thăng hoa những ý tưởng thiết kế. Sự can thiệp quá mức của máy móc và công nghệ dễ dẫn đến hiện tượng “nhân bản” hàng loạt, khiến cho vai trò và dấu ấn cá nhân của KTS bị phai mờ dần trong sáng tạo nghệ thuật.
Kết luận
Thủ pháp tạo hình là tiêu chí quan trọng nhất để giúp KTS làm nên một tác phẩm và trở thành một tác giả; là dấu hiệu để giúp công chúng phân biệt một nhà sáng tạo với một nhà chuyên môn giàu kinh nghiệm; thủ pháp tạo hình còn giúp nhận dạng kiến trúc trong các thời kỳ lịch sử của các nền văn hóa khác nhau. Do vậy mà thủ pháp tạo hình có vai trò rất quan trọng trong tư duy của nhà thiết kế.
Thủ pháp tạo hình là những kỹ năng mà những người làm nghệ thuật nói chung và kiến trúc nói riêng luôn phải tìm kiếm, trau dồi và học hỏi, thông qua đó mà đề xuất những sáng tạo và tạo nên “dấu ấn” của cá nhân. Công cuộc sáng tạo trong lĩnh vực tạo hình kiến trúc chưa bao giờ dừng lại và để có thể đạt được thành tựu nghệ thuật mong muốn thì các nhà thiết kế cần phải có những thủ pháp tạo hình thích ứng với chủ đề thiết kế và điều này quyết định mức độ thành công của tác phẩm. Suy cho cùng, thủ pháp tạo hình không chỉ đến từ kinh nghiệm mà còn là sự đột phá, sáng tạo cá nhân, gắn kết với những đặc điểm văn hóa – xã hội và sự phát triển của khoa học – kỹ thuật của từng quốc gia, dân tộc…
Tài liệu tham khảo
- Yana Kuznietsova, Halyna Osychenko (2020), Form-Making Methods from Landform Architecture, Elektronički časopis građevinskog fakulteta Osijek, No.21.
- Lê Thanh Sơn (2001), Một số xu hướng kiến trúc đương đại nước ngoài, Nhà xuất bản Xây Dựng.
- Robert Venturi (1966), Complexity and Contradiction in Architecture, The Museum of Modern Art Papers.
- Cambridge Dictionary
https://dictionary.cambridge.org Wikipedia – The Free Encyclopedia; https://www.wikipedia.org