Thực trạng văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội

Nguyễn Thị Huệ – Viện nghiên cứu Văn hóa

Current status of cultural conduct in the high rise apartment environment in Hanoi

Abtracts: The process of urbanization and rapid development of cities in our country is the driving force that promotes and changes the quality of urban architectural images and spaces, especially residential architecture. . As a part of the urban structure, this type of apartment housing exists in the heart of the city and its development process. Along with the urban development of Vietnam, apartments also have changes from shape to population. From the beginning as low-rise apartment buildings, which people often called collective houses during the subsidy period, until recent years, apartment buildings have shown signs of changing shape. This type of high-rise apartment buildings appears more and more in Hanoi and big cities as an inevitable result of the process of urbanization and industrialization, and quickly becomes a housing development trend. of modern Vietnamese urban areas. But until now, people have only paid attention to the external facilities and not thought about how to deal with it. Therefore, it is extremely necessary to research, evaluate and find a development model for the behavioral culture of apartment residents.

 Keywords: urbanization, urban, development, cultural behavior./.

Loại hình nhà ở chung cư cao tầng xuất hiện ngày càng nhiều ở Hà Nội và các thành phố lớn như là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, để rồi nhanh chóng trở thành xu hướng phát triển nhà ở của đô thị Việt Nam hiện đại. Thế nhưng cho đến nay, người ta mới chỉ quan tâm tới cơ sở vật chất bên ngoài chứ chưa nghĩ tới việc phải ứng xử với nó ra sao. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá và tìm ra một khuôn mẫu phát triển cho văn hóa ứng xử của cư dân chung cư là vô cùng cần thiết.

          Từ trong các khu nhà chung cư, văn hóa chung cư cũng đang dần được định hình và trở thân thân thuộc, tạo nên nhiều giá trị nhân văn đặc trưng cho văn hóa ở của cư dân đô thị. Vì thế nghiên cứu văn hóa chung cư nói chung và văn hóa ứng xử trong chung cư cao tầng nói riêng là một việc làm thiết thực để có cái nhìn đúng đắn với đời sống của cư dân chung cư cũng như cư dân đô thị hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên đang bộc lộ nhiều biểu hiện tiêu cực, có nguy cơ phá vỡ nền tảng văn hóa, đạo đức truyền thống.

Theo thống kê xã hội học, hiện nay, mật độ bố trí các khu chung cư ở Hà Nội khá lớn (22,9% diện tích đất nhà ở năm 2007), trung bình 15-20 héc ta/khu, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong xây dựng nhà ở và có vai trò không gian quan trọng trong quy hoạch Hà Nội. Về vị trí, khu chung cư được xây dựng thành các tiểu khu lớn rải dọc theo các trục giao thông chính và trên các khu đô thị mới. Về đặc điểm, phần lớn các chung cư đều là chung cư cao tầng, có thang máy, hầm hoặc nơi để xe riêng, căn hộ được thiết kế độc lập khép kín, đáp ứng yêu cầu ngày một cao của cư dân đô thị hiện đại.

Văn hóa ứng xử có thể được phân tích dưới nhiều góc độ, trong đó góc độ được biểu hiện rõ nhất là hành vi ứng xử, tuy nhiên hành vi ứng xử được quyết định bởi thái độ ứng xử, nên việc phân tích văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên hay môi trường xã hội chung cư đều phải được nhìn từ hai góc độ: thái độ và hành vi.

Thái độ ứng xử

Khi được hỏi: “Ông (bà) có cảm thấy dễ dàng thích nghi với không gian khu chung cư không?”, trong đó 70,3% đối tượng điều tra lựa chọn có và 29,7% lựa chọn không. Có thể thấy, hầu hết những cư dân đều đã thích nghi với không gian chung của khu chung cư cao tầng, họ cảm thấy hài lòng với an ninh (70%), tiện ích (66%), môi trường trong lành (56,7%), và cảnh quan sạch đẹp (45%) mà khu chung cư mang lại. Điều này cũng dễ hiểu bởi khu chung cư thường nằm trong vùng quy hoạch riêng, tránh đường lớn nên môi trường và cảnh quan sạch đẹp. Sống ở căn hộ chung cư cao tầng, người dân được bảo vệ 24/24, người lạ không được tiếp cận, không vào được căn hộ nếu chủ nhà không đồng ý tiếp hoặc không có người ở nhà, nên an ninh chung cư luôn được bảo đảm so với những loại hình nhà ở khác. Đi kèm với khu chung cư còn là một hệ thống đa dạng các loại hình dịch vụ  như: căng tin, tầng hầm để xe, dọn rác thải, sửa chữa nhà cửa cho đến mua sắm…rất tiện lợi cho những người bận rộn không có nhiều thời gian.

Song sự đầy đủ, đồng bộ về các dịch vụ cũng không tránh khỏi việc kéo theo những chi phí không nhỏ trở thành gánh nặng cho cư dân chung cư, cũng như việc được bảo vệ 24/24 cũng vô tình khiến người dân có cảm giác bị giam hãm, cô lập. Tuy nhiên, về cơ bản, dưới góc độ tiện ích cho cuộc sống, căn hộ chung cư có lợi thế là ít tốn tiền mua, sửa chữa và tiện nghi hơn các ngôi nhà riêng lẻ. Chính vì thế nhiều người sẵn sàng trả tiền dịch vụ hàng tháng, hay chấp nhận những vấn đề nhỏ nảy sinh để có một không gian sống tốt, an toàn. Cũng bởi vậy mà chung cư cao tầng đang là sự lựa chọn hàng đầu của cư dân ở nhiều nước trên thế giới.

Bên cạnh đó, cũng có một số người cảm thấy khó thích nghi với không gian khu chung cư, phần lớn họ nghi ngờ về độ bền của chung cư , đặc biệt là các hộ sống ở khu tái định cư, bởi chất lượng công trình chung cư hiện nay chưa hoàn toàn bảo đảm, nhiều hiện tượng xuống cấp như nứt tường, bục trần và đường ống xuất hiện… Ngoài ra, nhiều người lại có tâm lí sợ hãi bởi những tai nạn như hỏa hoạn hay khó thích ứng với độ cao của những tầng cao khu chung cư  – một trạng thái mà nhà tâm lí học và xã hội học đã gọi tên đó “hội chứng nhà cao tầng”

 Hành vi ứng xử

Ứng xử với hệ thống hạ tầng xã hội

Khi được hỏi:“Ông (bà) có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường đối với hệ thống hạ tầng xã hội không?”, đa số người dân đều thể hiện là đã có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường đối với hệ thống hạ tầng xã hội (58,7%),  tuy nhiên vẫn có tới 32,3% người dân chung cư đôi khi không thực hiện việc giữ gìn vệ sinh chung và 9% người dân không chú ý đến. Theo quan sát thực tế, thì trong những khu chung cư cao tầng, vẫn có rác thải tại các hành lang, thang máy, sân vườn, thảm cỏ… Nhiều người vẫn giữ thói quen xấu là mang những rác thải bẩn trong nhà đem vứt ra bên ngoài chứ không bỏ vào lồng xả rác, chính vì thế mà tình trạng rác “nhảy dù” từ tầng cao xuống không còn là cảnh tượng xa lạ với chung cư. Rác từ dưới “đùn” lên, rác từ trên vứt xuống làm ô nhiễm môi trường chung. Điều đó cũng thể hiện ý thức bảo vệ và gìn giữ tài sản chung của một bộ phận cư dân chung cư còn kém, thậm chí nhiều người còn chiếm dụng tài sản chung để phục vụ mục đích riêng.

          Cụ thể, khi được hỏi về mục đích sử dụng “Ông (bà) sử dụng hành lang khu chung cư vào những mục đích nào?”,“Ông (bà) sử dụng khuôn viên ngoài  trời khu chung cư vào những mục đích nào?”,kết quả trả lời cho thấy hầu hết mọi người đều đã sử dụng hành lang và khuôn viên ngoài trời khu chung cư đúng mục đích, tuy nhiên vẫn còn 20,3% cho con cháu chơi đùa ngoài hành lang, 22,7% sử dụng khuôn viên vào việc buôn bán, kinh doanh, và 18,3% lấn chiếm khuôn viên để làm nơi để xe.

Đây cũng chỉ là một con số nhỏ so với con số thực mà ta quan sát được, điều dễ nhận thấy là ở nhiều nơi, khái niệm không gian chung dường như không tồn tại bởi các không gian này bị chiếm dụng tối đa để phục vụ mục đích riêng như: làm hàng quán, chỗ đậu xe, hay thành chỗ để xe lý tưởng của khách đến các quán càphê, Internet,…ở tầng 1. Hành lang chung chỉ dành để phục vụ mục đích đi lại cũng bị dùng làm nơi cho trẻ con chơi đùa, đá bóng, đá cầu…ồn ào gây mất trật tự. Việc sử dụng sai mục đích như trên dẫn tới việc va chạm tới lợi ích của nhiều người dân sống ở chung cư, bởi hệ thống hạ tầng xã hội được quy định là sở hữu chung của tất cả người dân, việc sử dụng phải theo đúng nội quy, không được bất kì ai xâm phạm, chiếm dụng.

Ứng xử với hệ thống hạ tầng kỹ thuật:

Trong câu hỏi: “Ông (bà) có biết sử dụng tất cả hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong khu chung cư đúng cách không?”, 81,7% người dân sống ở chung cư đều biết sử dụng thang máy, hộp kỹ thuật, bình cứu hỏa hệ thống điện, nước….đúng cách. Sống ở chung cư, tất cả người dân phải làm quen với những trang thiết bị kỹ thuật trên để phục vụ cho chính nhu cầu di chuyển, sinh hoạt của bản thân, cũng như để bảo vệ chính mình. Vấn đề sử dụng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đúng cách cũng được ban quản lý nhà chung cư quan tâm bằng cách mở các khóa học về cứu hỏa, phát bảng chỉ dẫn việc sử dụng. Bên cạnh đó, vẫn có 18,3% chưa biết sử dụng hết tất cả những trang thiết bị kỹ thuật trên. Phần lớn họ là những người chưa thể thích ứng ngay với trang thiết bị hiện đại như những người cao tuổi và phụ nữ, trẻ nhỏ hoặc người giúp việc ở chung cư. Điều đó lý giải cho việc hỏng hóc, xuống cấp nhanh chóng của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ tai nạn do hỏa hoạn ở chung cư.

Ứng xử với cây xanh

Cây xanh có mặt trong khuôn viên chung cư nhằm mục đích tạo những mảng xanh đối lưu không khí vào tạo cảnh quan hài hòa với thiên nhiên cho những khu nhà cao tầng. Thiên nhiên nói chung và bối cảnh thiên nhiên tại các không gian sinh hoạt công cộng ở chung cư là nguồn lực vô giá, chính vì vậy mà 100% người dân chung cư khi được hỏi (“Ông (bà) ứng xử thế nào với cây xanh trong khu chung cư?”) đều trả lời là không ngắt lá, bẻ cành, phá hoại không gian xanh, tuy nhiên phần lớn họ cũng không chăm sóc và chú ý nhiều đến cây trồng  (96,4%).

Hành vi ứng xử trên có thể xuất phát từ hai nguyên nhân: Trước hết là do đại bộ phân những người dân sinh sống ở chung cư nói chung và cư dân đô thị nói riêng đã hình thành tâm lý “những gì là của chung” thì cũng thờ ơ, không để ý, quan tâm, đó là một tâm lý mang đặc điểm khác với tâm lý làng xã vốn tồn tại cố hữu trong tâm thức người dân nông thôn Việt Nam. Thứ hai là do không gian cây xanh trong không gian chung khu chung cư vẫn rất hạn chế, chưa đủ để gây ảnh hưởng đối với con người và để con người tác động trở lại. Nhiều nhà xây dựng chung cư còn chưa chú ý nhiều đến việc tạo lập những mảng xanh xen kẽ những khối nhà cao tầng cứng nhắc. Chính vì vậy khi nhắc đến chung cư, người ta vẫn thường nghĩ đến một không gian bị bê tông hóa, thiếu không gian cây xanh.

 Ứng xử với không gian căn hộ              

Kết quả trả lời câu hỏi “Ông (bà) có dễ dàng thích nghi với không gian căn hộ chung cư không?”cho thấy: Cũng như thái độ ứng xử với không gian chung, đa số người dân chung cư đều cảm thấy dễ dàng thích nghi với không gian căn hộ (68,3%), họ cảm thấy hài lòng vì sự tiện nghi (68,3%), tính độc lập, khép kín của căn hộ (68,3%), và thiết kế của căn hộ (56,6%). Điều này cho thấy căn hộ chung cư cao tầng đã phù hợp với mong muốn, nhu cầu của đại bộ phận người dân sinh sống.

Nhưng mặt khác, chính thiết kế theo mẫu có sẵn và tính độc lập khép kín của căn hộ lại khiến nhiều người cảm thấy khó thích nghi, họ không cảm thấy thoải mái trong một không gian quá khép kín và chật chội (26,3%), và họ cũng cho rằng thiết kế của căn hộ là chưa hợp lý (28%). Điều này cũng dễ hiểu, vì sống trong không gian khép kín, người dân không tránh khỏi cảm giác gò bó, khó chịu vì bị “giam”.Việc thiết kế căn hộ chung cư cũng thường theo một mẫu có sẵn về số lượng và công năng các phòng, cũng như kiến trúc căn hộ cũng thường chỉ phù hợp với những hộ gia đình sống theo mô hình gia đình hạt nhân (1 cặp vợ chồng hoặc bố mẹ – con cái), nên không gian căn hộ chung cư khó tìm được sự hài lòng của 100% đối tượng sinh sống.

Ngoài ra, cũng có tới 31,7% cảm thấy khó thích nghi bởi họ nghi ngờ mức độ bền vững (30%), an toàn của căn hộ chung cư. Điều đặc biệt là số lượng 31,7% này chủ yếu là những cư dân sống trong khu tái định cư, nhà ở của họ chỉ có diện tích dưới 60m2, khá nhỏ hẹp so với các chung cư khác, và sự xuống cấp nhanh chóng của các chung cư tái định cư cũng đang trở thành vấn đề được họ quan tâm và băn khoăn nhất.

Tất cả những nguyên nhân bên trong và bên ngoài trên đã dẫn đến việc hình thành 2 thái độ ứng xử trái ngược nhau của cư dân chung cư: dễ thích nghi và khó thích nghi, cũng từ đó mà những người dân sinh sống ở đây cũng bộc lộ những nhu cầu, ý muốn, và hành vi ứng xử theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Hành vi ứng xử

Hành vi ứng xử với không gian căn hộ chung cư có thể được phân chia thành: Ứng xử với hệ thống kết cấu chịu lực (sàn, tường, khung cột, cửa, phần diện tích chung của căn hộ), ứng xử với trang thiết bị kĩ thuật và đồ dân dụng, trang trí, và ứng xử với sinh vật cảnh trong căn hộ. Kết quả điều tra như sau:

Ứng xử với hệ thống kết cấu chịu lực

Có thể thấy căn hộ chung cư cao tầng thường quy định công năng các phòng trong căn hộ như sau: 2-3 phòng ngủ, 1-3 nhà vệ sinh, 1 phòng khách, 1 phòng bếp. Nhưng trên thực tế, những phòng này được phân chia lại chức năng. Sự thay đổi này phụ thuộc vào nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và sinh hoạt tâm linh của chủ nhà:                                                                                                          Như chuyển từ chức năng phòng ngủ sang làm phòng làm việc hoặc phòng học cho con, hoặc phòng ngủ thành phòng đặt bàn thờ tổ tiên, nơi đặt bàn thờ và phòng ở cũng theo hướng phù hợp với mệnh, tuổi, phong thủy… đây cũng là điểm nổi bật trong văn hóa ứng xử với căn hộ chung cư của người Việt Nam so với nhiều nước trên thế giới. Việc thay đổi công năng còn thể hiện ở chỗ: Khác với thời kì bao cấp, khi các căn hộ chỉ được sử dụng đơn giản vào mục đích ở, thì hiện nay một số căn hộ lại đang được sử dụng cho nhiều chức năng khác như làm cửa hàng, văn phòng kinh doanh, giao dịch….hiện tượng này diễn ra phổ biến không chỉ ở các căn hộ tầng 1 (nơi được phép kinh doanh, được nêu trong quy chế quản lý và sử dụng chung cư), mà còn ở các căn hộ trên tầng cao.

Ngoài nhu cầu thay đổi công năng, 78,3% người được hỏi còn có nhu cầu hoặc đã thực hiện việc thay đổi kiến trúc căn hộ. Đối tượng có nhu cầu này thường là những có nghề nghiệp ổn định, thu nhập trung bình trở lên nên việc thay đổi kiến trúc căn hộ còn là để họ thể hiện địa vị bản thân cũng như óc thẩm mỹ và sở thích của mình. Với mục đích sẽ gắn bó suốt đời với ngôi nhà chung cư, nhiều người đã thuê kiến trúc sư hoặc họa sỹ để thiết kế căn hộ một cách cẩn trọng. Qua quan sát thực tế, đối tượng chính sống trong chung cư là người trẻ tuổi, nên xu hướng thay đổi kiến trúc cũng rất hiện đại và trẻ trung. Màu sắc trong căn hộ thiên về bảng màu sáng, nhẹ nhàng, phối màu hiện đại. Đường nét thẳng, đơn giản, không có họa tiết trang trí cầu kỳ nhưng phải mạnh mẽ và cá tính. Đặc biệt, yếu tố thông thoáng và tiện dụng luôn được đề cao.

Không chỉ thay đổi công năng và kiến trúc căn hộ, nhiều người có xu hướng tác động vào hệ thống kết cấu chịu lực nhằm: tăng diện diện tích bằng cách cơi nới ban công, đập tường (9%), tăng giảm số phòng bằng cách xây thêm hoặc đập tường, khung cột, thông phòng… (37,6%). Tình trạng cơi nới diện tích xảy ra chủ yếu ở những nhà tái định cư. Tại những khu nhà N2E và toàn bộ các dãy nhà tái định cư N1 – N7 (Trung Hòa – Nhân Chính), khi thiết kế khu vực tầng hai có hành lang đi chung ngoài ban công nhưng hiện tại dãy hành lang này đã được các hộ dân vây kín bằng rào sắt, lợp mái tôn của riêng gia đình. Khu vực bị cơi nới phổ biến nhất là phía sau ban công căn hộ, hay còn gọi là “ba lô, chuồng cọp”. “Chuồng cọp” xuất hiện ở hầu khắp các đơn nguyên, nhiều căn hộ còn lấn ra cả mét so với giới hạn ban công theo thiết kế ban đầu. Đi liền với những cái lồng sắt treo lơ lửng là hàng giàn ke sắt giá đỡ băm nát nhiều mảng tường, được che chắn bằng đủ mọi loại vật liệu từ cót ép, tấm nhựa, gỗ tạp, bìa các tông. Tình trạng lấn chiếm, cơi nới diễn ra thường xuyên liên tục. Các hộ dân đưa ra nhiều lý do khi cơi nới như nhà có trẻ nhỏ lo sợ rủi ro, phơi đồ khỏi lo thất lạc hoặc gió thổi bay, trồng cây cảnh…

Dưới góc độ kiến trúc và xã hội học đô thị, nhờ việc thay đổi kiến trúc, công năng căn hộ mà thế giới của những không gian sống mới – thế giới của căn hộ chung cư cao tầng đã trở nên đa dạng và phong phú với nhiều kiểu dáng, màu sơn, cách bài trí khác nhau. Nhưng bên cạnh đó, việc sửa chữa, xây dựng của các căn hộ một cách bừa bãi, trái với quy định đang làm phá vỡ bầu không khí yên tĩnh và ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng chung của chung cư, khiến bộ mặt một số chung cư trở nên mất thẩm mỹ và xuống cấp nhanh chóng. Chính vì thế cần phải nhấn mạnh rằng, việc thay đổi công năng, kiến trúc, diện tích và cấu trúc căn hộ tuy diễn ra phổ biến nhưng cũng phải nằm trong một giới hạn nhất định.

Ứng xử với trang thiết bị kỹ thuật và đồ dân dụng, trang trí

100% cá nhân được điều tra đều mua sắm nhiều loại vật dụng để trang trí căn hộ nơi mình sinh sống. Trả lời cho câu hỏi “Ông (bà) thường mua sắm những vật dụng gì để trang trí và sử dụng trong căn hộ?”, họ lựa chọn loại vật dụng được mua nhiều nhất là đồ trang trí đơn thuần như: tranh ảnh, lịch tường, đồ lưu niệm.. (100%) và thiết bị gia dụng (100%). Trang thiết bị mà họ lựa chọn cũng không còn ở mức tối thiểu mà thay đổi theo hướng tăng lên, phong phú, hiện đại. Phần lớn là tủ lạnh, ti vi màn hình lớn, dàn âm thanh, máy tính, máy giặt, thiết bị vệ sinh… Ngoài ra, việc hiện đại hóa nội thất cũng đã trở thành việc làm phổ biến trong các gia đình ở chung cư cao tầng. 70% đối tượng được hỏi đã chọn nội thất làm vật dụng trang trí, 30% còn lại không chọn chủ yếu nằm trong những đối tượng thuê nhà, hay sử dụng chung cư vào mục đích kinh doanh, những người không có khả năng chi trả cao như người cao tuổi, cư dân tái định cư.

Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng trên là do mức sống cao của các gia đình sống trong chung cư cao tầng làm nảy sinh các nhu cầu và khả năng mua sắm. Song điều đó cũng thể hiện sự thích nghi với không gian vốn được thiết kế theo lối kiến trúc hiện đại của căn hộ chung cư bằng cách sắm sửa đồ đạc hiện đại để trang trí căn hộ. Diện tích và không gian của chung cư không rộng và phong phú như nhà riêng nên tất cả những trang thiết bị dân dụng hay đồ trang trí cũng nhỏ gọn, dễ di chuyển. Tất cả đã làm nên diện mạo riêng của những căn hộ chung cư cao tầng ở Hà Nội.

Ứng xử với sinh vật cảnh trong căn hộ

Khác với các dạng nhà ở khác, căn hộ chung cư không có diện tích riêng dành cho trồng cây xanh hay nuôi vật cảnh. Trong điều kiện diện tích nhà ở còn chật hẹp, việc nảy sinh nhu cầu trồng cây cảnh, xây tiểu cảnh, nuôi chim thú cảnh trên ban công hoặc trong nhà là một lẽ tự nhiên. Chính vì vậy trong câu hỏi “Ông (bà) có nuôi trồng cây xanh vật cảnh trong căn hộ không?”, có 44% gia đình ở chung cư cao tầng trả lời là trồng cây cảnh, 10,3% nuôi thú cảnh, 4% nuôi chim, 9% nuôi cá cảnh trong căn hộ của mình. Xét dưới góc độ văn hóa, việc nuôi trồng sinh vật cảnh cũng đã thể hiện lối ứng xử hài hòa, gắn bó với môi trường tự nhiên- thiên nhiên thứ nhất của người dân chung cư.

Nhưng trên thực tế, việc nuôi trồng sinh vật cảnh đã gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cuộc sống chung của các gia đình khác, ví dụ như tưới nước cho cây trồng ở ban công làm ảnh hưởng đến những hộ tầng dưới, nuôi chim thú gây ồn ào và ô nhiễm môi trường. Do vậy, việc nuôi trồng sinh vật cảnh cần phải được điều chỉnh thích hợp, như hướng đến việc xây dựng một môi trường cho chim chóc ở bên ngoài chung cư sẽ tốt hơn là quản lý trong nhà, từ đó tạo nên nét đẹp văn hóa của cư dân chung cư cao tầng nói riêng và người dân đô thị nói chung.

Việc khảo sát thái độ và hành vi ứng xử với không gian chung và không gian căn hộ chung cư cao tầng đã cho thấy một điểm chung, đó là trước môi trường tự nhiên chung cư cao tầng, người dân cư trú thường có trạng thái ứng xử: Thích nghi và đối phó.

Một số người không thích ứng ngay với môi trường tự nhiên chung cư  cao tầng nên đã nảy sinh lối ứng xử theo kiểu “đối phó”. Thứ nhất, để đối phó với sự đơn điệu về thiết kế căn hộ, con người thay đổi kiến trúc, công năng căn hộ cho phù hợp với nhu cầu và sở thích của mình. Thứ 2, để đối phó với những nội quy chung vốn cứng rắn đề ra cho cộng đồng chung cư, con lại người luôn tìm cách trốn tránh thực hiện như xả rác bừa bãi, dùng các trang bị kĩ thuật không đúng quy cách, lợi dụng không gian chung để phục vụ mục đích riêng. Thứ 3, để đối phó với sự chật chội của căn hộ, người dân chung cư cũng tận dụng tất cả những khoảng không gian để có thể mở rộng căn hộ của mình.

Hai trạng thái ứng xử trên trái ngược nhau nhưng có lúc lại tồn tại song song với nhau. Trong một hành vi ứng xử đôi lúc bắt gặp cả hai trạng thái trên, hoặc một trạng thái ứng xử lại quyết định nhiều hành vi khác nhau, cả tích cực và tiêu cực. Cụ thể, sự đối phó với môi trường tự nhiên chung cư cao tầng cũng có tính hai mặt của nó, nó có thể làm cho cuộc sống con người ta tốt lên, lại cũng có thể khiến cuộc sống của con người xấu đi và làm xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực trong văn hóa ứng xử của con người. Cũng như vậy, việc thích nghi cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi chung cư cao tầng là môi trường sống mới, vốn xa lạ với văn hóa ở của người Việt truyền thống, nên con người không thể thích nghi tự nhiên, mà chỉ là thích nghi một cách miễn cưỡng.

Tóm lại, hai trạng thái ứng xử trên là kết quả tất yếu của việc sinh sống trong môi trường tự nhiên chung cư cao tầng, trong đó việc thích nghi vẫn đang là xu hướng chiếm ưu thế. Chính xu hướng này cũng đã tác động đến văn hóa ứng xử với môi trường xã hội, cụ thể là để thích nghi với kiểu thiết kế và không gian hạn hẹp của căn hộ chung cư mà con người chấp nhận sống theo gia đình hạt nhân.

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội

Ứng xử với gia đình

Khi tiến hành điều tra, ta thấy số lượng cá nhân và mối quan hệ giữa các cá nhân sống cùng chung sống có sự khác nhau giữa các căn hộ. Không phải căn hộ nào cũng có đối tượng sinh sống là gia đình, cũng không phải căn hộ nào cũng cùng một kiểu gia đình sinh sống. Chính vì thế mà việc tìm hiểu văn hóa ứng xử với gia đình trong môi trường chung cư cao tầng không chỉ khảo sát dưới dạng khái quát  mà còn nhằm so sánh văn hóa ứng xử với gia đình ở những kiểu gia đình khác nhau trong môi trường chung cư cao tầng.

Thái độ ứng xử:

Có tới 22,7% người ít gắn bó, quan tâm chia sẻ với các thành viên trong gia đình, và 4,3% thể hiện thái độ ứng xử lạnh lùng, không có sự gắn bó với gia đình, cho rằng mỗi người là một thế giới riêng. Nguyên nhân chính ở chỗ: sống ở căn hộ chung cư đồng nghĩa với việc xuất hiện lối sinh hoạt kiểu “phòng riêng”. Kiểu ở cá nhân đó đã mở rộng cách thức và sở thích sinh hoạt riêng tư. Tính tự chủ, tự lập của mỗi người được coi trọng hơn, những điều đó cũng đồng nghĩa với việc mỗi người sẽ ít can thiệp vào cuộc sống của người khác. Cá nhân hóa “cái ở” gây nên sự đứt đoạn sâu xa không chỉ văn hóa ở, mà cả văn hóa ứng xử trong gia đình.

Thái độ ứng xử trên cũng là kết quả của quá trình chuyển đổi văn hóa gia đình để thích ứng, hòa nhập với kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa – khi mà các gia đình ở đô thị tập trung làm kinh tế nên coi nhẹ chức năng tình cảm và tổ ấm gia đình. Nếu so sánh văn hóa ứng xử với gia đình ở những căn nhà riêng, xây nhiều tầng với văn hóa ứng xử với gia đình trong môi trường chung cư thì mối quan hệ của những thành viên trong gia đình ở nhà riêng cũng không thể gần gũi hơn. Bởi ở chung cư, do sinh sống trong cùng một mặt bằng nên tần số gặp nhau của các thành viên trong gia đình ở chung cư vẫn nhiều hơn. Do vậy hướng đến một giải pháp cho một chung cư có môi trường sống gần gũi, thân thiện để các thành viên trong gia đình xích gần lại với nhau là không quá khó.

Hành vi ứng xử: Hành vi ứng xử với gia đình của người dân sống trong chung cư được điều tra qua câu hỏi: “Gia đình ông (bà) là kiểu gia đình mấy thế hệ cùng chung sống?” Kết quả điều tra cho thấy sự tồn tại của hai kiểu gia đình trong môi trường chung cư: gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng, đi kèm với nó là hai xu hướng ứng xử trong gia đình khác nhau:

  • Kiểu gia đình hạt nhân:

Thứ nhất, kiểu gia đình hạt nhân đã xuất hiện và trở nên phổ biến trong môi trường chung cư (22,3% gia đình 1 thế hệ và 48% gia đình 2 thế hệ). Đáng chú ý, trong câu hỏi khi được hỏi về hành vi giao tiếp, ứng xử giữa các thành viên trong gia đình thì có tới 47% trả lời là chỉ “đôi khi” các thành viên trong gia đình giao tiếp và sinh hoạt chung, trong khi đó ở kiểu gia đình mở rộng, số lượng trả lời như trên chỉ chiếm 22,5%. Điều này cho thấy mối quan hệ thân tộc truyền thống trong gia đình đã nhạt dần, nhất là các thế hệ lớn lên trong chung cư. Nguyên nhân do mỗi gia đình hạt nhân phổ biến chỉ gồm vợ chồng và con cái, thời gian dành cho gia đình bị san sẻ cho công việc và học hành đã khiến các thành viên trong một gia đình không có nhiều thời gian để gặp gỡ, chuyện trò. Mối quan hệ giữa con cháu, ông bà, chú bác…cũng ít diễn ra, từ đó dẫn đến vai trò của gia đình và văn hóa ứng xử trong gia đình bị giảm sút.

– Kiểu gia đình mở rộng:

Những gia đình sống 3 thế hệ trở lên, hay còn gọi là kiểu gia đình mở rộng cũng có nhưng không nhiều (16,3%). Bởi chung cư thường hướng đến đối tượng là các gia đình trẻ, từ đó mà diện tích mỗi căn hộ cũng có hạn, và thiết kế theo lối hiện đại, không phù hợp với kiểu gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống. So với gia đình hạt nhân, những thành viên sống trong gia đình mở rộng có sự gắn bó mật thiết hơn, 77,5 % thành viên trong gia đình thường xuyên giao tiếp, sinh hoạt với nhau, tuy nhiên việc giữ nguyên cấu trúc gia đình mở rộng trong một không gian hạn hẹp cũng làm phá vỡ kết cấu, gây quá tải không gian căn hộ, mất thẩm mỹ diện mạo chung cư.

Ứng xử  với cộng đồng:

 Thái độ ứng xử:

Việc tổng kết các phương án trả lời trong câu hỏi : “Mối quan hệ của ông (bà) với cộng đồng trong khu chung cư như thế nào? ” cho kết quả sau:

Nội dung điều tra Phương  án

Câu hỏi

a b C d e
Thái độ ứng xử 19 10,6 71,7 27,3 1,5  

Theo bảng số liệu trên, ta thấy, số lượng người trả lời là “chỉ giao tiếp xã giao” chiếm tỉ lệ nhiều nhất (71,7%), sau đó là những người trả lời “không quan tâm, nhà nào biết nhà ấy” chiếm tỉ lệ cao thứ 2 (27,3%). Còn lại là 1,5% trả lời là có mâu thuẫn, xích mích. Như vậy, mâu thuẫn, xích mích giữa căn hộ này và căn hộ khác vẫn còn tồn tại trong chung cư. Bởi chuyện sống chung trong một ngôi nhà lớn, không khác những “bầy ong” đông đúc trong một tổ. Sự chung đụng nảy sinh nhiều phức tạp, khó tránh khỏi mâu thuẫn. Tuy nhiên, những mâu thuẫn này chỉ chiếm số lượng nhỏ (1,5%), cho thấy những người dân sống ở chung cư tôn trọng đời sống riêng tư của bản thân cũng như của người khác, có ý thức gìn giữ quan hệ láng  giềng hòa thuận. Mặt khác, điều này cũng thể hiện trong chung cư cao tầng, giữa căn hộ này với căn hộ khác ít có sự can thiệp, ảnh hưởng lẫn nhau. Thực tế là trong nhiều chung cư cao tầng, nhiều hộ gia đình sống bên cạnh nhau mà không biết hộ sống bên cạnh của mình là ai. Như vậy, nhìn chung thì mối quan hệ của người dân chung cư với cộng đồng khá mờ nhạt.

Hành vi ứng xử:

Cấu trúc căn hộ khép kín, dịch vụ khá hoàn hảo, cư dân không cần không gian cộng sinh cũng có thể sinh hoạt bình thường, điều này khiến không gian giao tiếp bị hạn chế. Bên cạnh đó, sự khác biệt về quê hương, làng xóm, họ hàng, nghề nghiệp…giữa những người dân chung cư cũng khiến đối tượng giao tiếp bị thu hẹp. Những trở ngại đó đã dẫn đến việc giao tiếp và ứng xử cộng đồng cũng bị hạn chế. Trong câu hỏi: “Những lúc khó khăn, ông (bà) thường được ai giúp đỡ?”, số lượng những người trả lời là được hàng xóm láng giềng giúp đỡ lúc khó khăn chỉ chiếm 5% cho thấy những người trong chung cư ít giao tiếp và gắn bó với hàng xóm láng giềng. Nói cách khác, loại quan hệ láng giềng nhìn chung chưa suy giảm nhiều song bắt đầu có dấu hiệu xa cách.

Cũng trong môi trường chung cư, nếu quan hệ láng giềng có dấu hiệu xa cách đi thì một loại quan hệ mới lại xuất hiện. Đó là quan hệ trong câu lạc bộ, các hội, đoàn thể trong chung cư. Trong câu hỏi : “Ông (bà) có tham gia các câu lạc bộ, hội, đoàn thể trong khu chung cư không?”, có tới 67,3% cư dân chung cư trả lời là có. Và trong câu hỏi , “Ông (bà) có tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chung mà khu chung cư tổ chức không?”, có 27,3% người trả lời là tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chung mà khu chung cư tổ chức (các cuộc họp hành, trung thu, tết thiểu nhi, lễ tất niên…).

Điều này cho thấy những dấu hiệu của sự biến đổi lối sống cộng đồng, nếu lối sống cộng đồng của văn hóa truyền thống là hình ảnh của sự kết giao láng giềng, sự gắn kết trong cùng một dòng họ, một làng, xóm thì lối sống cộng đồng của người Việt Nam trong môi trường chung cư đã biến chuyển thành lối sống cộng đồng cộng sinh khi cùng nhau chia sẻ không gian cư trú, cơ sở vật chất, kỹ thuật, dịch vụ xã hội…và giao lưu cộng đồng qua các sinh hoạt câu lạc bộ, các hội – đoàn thể do khu chung cư tổ chức. Sự biến đổi ấy, ta đã bắt gặp ngay trong đời sống những cư dân chung cư đầu tiên từ những năm 1960 tại Hà Nội. Nhưng so với lối sống cộng đồng cộng sinh mang tính chất tập thể hóa, bao cấp hóa tại chung cư thời ấy, lối sống cộng đồng cộng sinh ở trong các khu nhà chung cư cao tầng mới hiện nay mang tính chất độc lập, tôn trọng cá nhân hơn. Đó cũng chính là lối sống cộng đồng đô thị, mang tính cách, văn hóa ứng xử của đô thị hiện nay

Đặc biệt, trong quá trình điều tra, ta cũng thấy xuất hiện một mối quan hệ mới với cộng đồng ở chung cư cao tầng so với loại hình nhà tập thể ở Hà Nội trước đây, đó là mối quan hệ ứng xử giữa chủ đầu tư và cư dân sinh sống. Ở những chung cư thời kỳ trước, mối quan hệ này chưa xuất hiện, cư dân là người tự quyết định cuộc sống của mình, hoặc thông qua ban quản lý cũng do dân bầu ra. Tuy nhiên, do không có phí quản lý, nâng cấp thường xuyên nên chung cư cũ nhanh chóng xuống cấp.

Trong khi đó, ở các chung cư cao tầng mới xây dựng hiện nay, chủ đầu tư đóng vai trò là người quản lý gián tiếp, nên giữa chủ đầu tư và cư dân chung cư có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại với nhau: Chủ đầu tư là người độc quyền về chất lượng nhà ở và dịch vụ, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân, ngược lại, cư dân có tác động đến hệ thống hạ tầng xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống kết cấu chịu lực, không gian nhà ở…của chung cư do chủ đầu tư xây dựng và chịu trách nhiệm quản lý, giám sát. Nếu chủ đầu tư đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của cư dân, và cư dân có tác động tích cực đến môi trường sinh sống, thì mối quan hệ đó mang tính hài hòa, thúc đẩy sự phát triển chung của cả hai. Ngược lại, nếu chủ đầu tư đặt lợi nhuận lên hàng đầu mà tăng giá nhà hoặc dịch vụ lên cao, không đáp ứng được nhu cầu của cư dân, và cư dân cũng có tác động tiêu cực đến môi trường sinh sống, thì mối quan hệ đó trở nên mâu thuẫn, gây tổn thương và bất lợi cho cả hai. Chính vì vậy để phát triển loại mô hình nhà ở chung cư cao tầng ở Hà Nội, không thể quên việc giải quyết mối quan hệ trên sao cho hài hòa, tránh mâu thuẫn, trên cơ sở bình đẳng, dựa trên pháp luật.

Qua kết quả khảo sát thái độ và hành vi ứng xử với môi trường xã hội chung cư cao tầng đã cho ta thấy một số nét nổi bật sau:

– Về thái độ ứng xử: Thái độ ứng xử với gia đình và với cộng đồng của người dân chung cư đều có xu hướng tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự do cá nhân nhiều hơn là phát triển lối sinh hoạt và tình cảm gia đình – cộng đồng. Một số biểu hiện cụ thể như: xuất hiện lối sinh hoạt kiểu “phòng riêng” trong gia đình, hay con người cũng ít can thiệp vào cuộc sống của các thành viên trong gia đình cũng như cộng đồng.

Xu hướng này cũng có tính hai mặt. Bên cạnh việc kích thích sự phát triển của cá nhân, tạo cảm giác thoải mái, tự do cho con người, là việc làm lu mờ những mối quan hệ thân tộc, và đặc biệt làm nảy sinh trạng thái cô đơn, lạc lõng giữa cộng đồng trong không ít người dân. Xét trong bối cảnh ngày nay, khi văn hóa, đạo đức, lối sống con người đang chịu tác động to lớn của nền kinh tế thị trường, ta thấy mặt tiêu cực của thái độ ứng xử mang tính cá nhân của người dân chung cư càng trở nên rõ nét. Nếu không được ngăn chặn, những biểu hiện tiêu cực trên sẽ dẫn đến nguy cơ làm mất dần nét văn hóa truyền thống trong văn hóa ứng xử cũng như lối sống người Việt.

– Về hành vi ứng xử, có thể nhận ra tác động của môi trường tự nhiên chung cư đến văn hóa ứng xử với môi trường xã hội chung cư của con người. Do không gian căn hộ chung cư chật hẹp, con người phải lựa chọn cách tổ chức gia đình kiểu hạt nhân. Cũng do không gian khép kín và độc lập của căn hộ, mối quan hệ của con người với cộng đồng cũng bị hạn chế.. Và do không gian chung khu chung cư là không gian cộng sinh nên lối sống cộng đồng của người Việt Nam trong môi trường chung cư đã biến chuyển thành lối sống cộng đồng cộng sinh khi cùng nhau chia sẻ không gian cư trú, cơ sở vật chất, kỹ thuật, dịch vụ xã hội…Nói cách khác, có thể hiểu môi trường tự nhiên chung cư là điều kiện khách quan quyết định đến thái độ và hành vi ứng xử của con người đối với môi trường xã hội. Khi môi trường tự nhiên thay đổi, thì văn hóa ứng xử của con người cũng thay đổi theo.

Sự xuất hiện của chung cư cao tầng ở Hà Nội nói riêng và ở các đô thị tại Việt Nam nói chung là kết quả của hàng thế kỉ vận động, trên lộ trình đô thị hóa, từ đó dẫn đến sự chuyển đổi của một hợp thể các yếu tố kỹ thuật, quan điểm, lối sống, và văn hóa, trong đó văn hóa ứng xử.

          Nhìn chung, văn hóa ứng xử của người dân chung cư có nhiều nét tích cực và phù hợp với môi trường sống. Thái độ và lối ứng xử chuộng cái đẹp ở người Việt Nam ngày nay không chỉ dừng lại ở cái ăn, cái mặc mà đã thấy trong cái ở. Ngôi nhà không chỉ mang ý niệm đơn giản là “cỗ máy để ở” mà hơn thế nữa, nó còn là một thứ thương hiệu cho chủ nhân, khẳng định sự giàu có, thành đạt của người đó trong xã hội. Các gia đình ở chung cư khi ứng xử với không gian căn hộ không chỉ chú trọng đến diện tích sàn, tiện nghi, mà cả tính thẩm mỹ của căn nhà. Thói quen sinh hoạt tùy tiện, không ngăn nắp, vệ sinh đã giảm. Cùng với lối ứng xử giàu tính thẩm mỹ là ứng xử theo nề nếp, khuôn mẫu, dựa trên nguyên tắc bình đẳng – dân chủ, tôn trọng cá nhân nhưng vẫn không quay lưng lại với cộng đồng, tôn trọng bản thân nhưng vẫn không quên tôn trọng người khác.

Bên cạnh đó, một số những vấn đề tiêu cực cũng nảy sinh, như một bộ phận những người kém ý thức đã có thái độ và hành vi ứng xử không phù hợp với môi trường chung cư, dẫn đến làm tổn thương đến cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ý thức tôn trọng và bảo vệ những đặc tính của không gian công cộng còn mờ nhạt trong từng người dân, kể cả những người dân có trình độ học vấn tương đối. Nếp sống tùy tiện, bừa bãi, “vô chủ”, không nhìn thấy lợi ích chung, lợi ích lâu dài của xã hội, của cộng đồng mà chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, lợi ích trước mắt. Quá trình hoạt động, cải tạo, nâng cấp nhà ở của các hộ gia đình theo phương thức xây dựng tự lực và dần dần mặc dù đã cải thiện khá mạnh mẽ điều kiện ở trong căn hộ của họ, nhưng lại làm ảnh hưởng nhất định tới kết cấu, độ bền vững của ngôi nhà, làm xấu đi cảnh quan khu chung cư, không hạn chế được sự xuống cấp của nhiều kết cấu chung của ngôi nhà như cầu thang, hệ thống cấp thoát nước, nền móng…

Tất cả những điều trên cho thấy văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội vừa chịu ảnh hưởng, vừa mang những đặc trưng của văn hóa đô thị trong giai đoạn chuyển đổi, chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế thị trường, của quá trình hiện đại hóa nhà ở đô thị, do đó mà còn mang tính pha tạp, quá độ, chưa định hình thành một nếp ứng xử văn hóa – văn minh.

Chung cư cao tầng là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, để rồi nhanh chóng trở thành xu hướng phát triển nhà ở của đô thị Việt Nam hiện đại. Quá trình điều tra nghiên cứu văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư tuy mới dừng lại ở những bước đầu, nhưng đã giúp chúng ta nhận diện được phần nào đời sống văn hóa chung cư cao tầng ở Hà Nội nói riêng cũng như văn hóa chung cư nói chung, từ đó bắt kịp được với xu hướng phát triển nhà ở và xu hướng biến đổi văn hóa của người dân đô thị trong thời đại ngày nay.

Nhìn chung, văn hóa ứng xử của người dân sống trong chung cư cao tầng có nhiều nét tích cực, phù hợp với môi trường sống. Bên cạnh đó, một số người do ý thức kém hoặc khó thích nghi nên có thái độ và hành vi ứng xử không phù hợp, dẫn đến làm tổn thương môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở chung cư. Điều đó cho thấy văn hóa ứng xử trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội mang những đặc trưng của văn hóa đô thị Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi, chịu tác động của yếu tố kinh tế thị trường và của quá trình hiện đại hóa nhà ở đô thị, do đó mà còn mang tính pha tạp, quá độ, chưa định hình thành một nếp ứng xử văn hóa – văn minh.

Việc xây dựng, định hình nếp ứng xử văn hóa – văn minh trong môi trường chung cư cao tầng ở Hà Nội đang đối mặt với nhiều trở ngại, đó vừa là những vấn đề nảy sinh bên trong đời sống chung cư như:  Sự va chạm giữa kiến trúc hiện đại với quan niệm và lối sống truyền thống, sự va chạm giữa văn minh đô thị với văn hóa làng còn tồn tại ở một bộ phận cư dân; vừa là những vấn đề nảy sinh bên ngoài như sự bất hợp lý trong thiết kế chung cư và sự yếu kém trong tổ chức, quản lý đô thị. Muốn giải quyết những trở ngại nói trên, mọi phương hướng, giải pháp phải dựa trên mục tiêu chung là phát triển bền vững văn hóa đô thị, cũng như phải được thực hiện dưới hình thức, quy mô khác nhau, cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Văn minh đô thị không thuần túy căn cứ vào những ngôi nhà cao tầng, những khách sạn sang trọng, những tiện nghi vật chất hiện đại…Trên thế giới không hiếm những đô thị phồn vinh về vật chất nhưng từ đó đến môi trường văn hóa lành mạnh còn là một khoảng cách, đô thị hóa có hài hòa với đời sống văn hóa, nâng cao ý nghĩa con người, hướng con người từng bước chiếm lĩnh những đỉnh cao của sáng tạo, cũng như tạo chất xúc tác khiến con người hoàn thiện nhân cách, đó mới có thể hình thành đô thị văn minh. Với Hà Nội là thủ đô cả nước, ý nghĩa đó còn được nhấn mạnh hơn để có thể đi đầu trong việc xây dựng đô thị văn minh giàu bản sắc Thăng Long và văn hóa dân tộc.

Từ khóa: đô thị hoá, đô thị, phát triển, văn hóa ứng xử./.

Tài liệu tham khảo

  1. Lê Minh, Văn hóa ứng xử trong gia đình, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000.
  2. Lê Thị Bừng, Tâm lý học ứng xử, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000
  3. TS Nguyễn Viễn Chức, Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Viện VH và NXB VHTT, Hà Nội, 2002
  4. Ngô Công Hoàn. Giao tiếp và ứng xử của cô giáo với trẻ em. NXB Đại học Sư phạm. 1995.
  5. Vũ An Khánh, Nghiên cứu cải tạo nâng cấp các khu nhà chung cư cũ nhiều tầng xây dựng tại Hà Nội giai đoạn 1960 – 1986, Luận án TS kiến trúc, Hà Nội, 2003.
  6. Nguyễn Tố Lăng, vấn đề quy hoạch cải tạo không gian khu ở tại Hà Nội theo khuynh hướng phát triển bền vững, Luận án TS kiến trúc, Hà Nội, 2000
  7. Quy chuẩn xây dựng Việt Nam tập 1-2, NXB Xây dựng, Hà Nội 1997
  8. Quy định pháp luật về nhà chung cư, NXB Chính Trị, Hà Nội 2008
  9. Trịnh Duy Luân, Hans Schenk, Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, NXB Văn hóa thông tin 2000
  10. Nguyễn Đức Thiềm, Nhà ở và công cộng, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2002
  11. Trần Quốc An, Một số nét giới thiệt về các mẫu nhà ở theo phương thức xây dựng mới, thiết kế công trình dân dụng, Nội san thông tin Khoa học kỹ thuật, viện Thiết kế dân dụng bộ Xây dựng, số 4- 5, Hà Nội 2002.
  12. Ngô Phương Lan, Kiến trúc dân dụng, NXB Đại học xây dựng, Hà Nội, 2000.
  13. TS. Nguyễn Thanh Tuấn, Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay, NXB Từ điển Bách Khoa và Viện văn hóa, Hà Nội, 2008
  14. Trịnh Duy Luân, Xã hội học đô thị, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004
  15. Trịnh Duy Luân, Michael Leaf , Vấn đề nhà ở đô thị trong nền kinh tế thị trường của thế giới thứ 3, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996
  16. Trần Cao Sơn, Chung cư cao tầng, loại hình nhà ở mới Hà Nội, những vấn đề cần được xem xét, báo cáo đề tài cấp viện Xã hội học, Hà Nội 2001.
  17. Phan Đăng Long, Văn hóa đô thị với nếp sống người Hà Nội, tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 26.
  18. Hồ Sĩ Vịnh, Ứng xử của người dân đô thị với thiên nhiên, tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 27.

* Tài liệu trên internet:

  1. Minh Tuấn, Chung cư mới cũng đeo “ba lô”, 08/01/2009, http://www.tienphong.vn/
  2. Hoàng Lan, 10 chung cư ‘hot’ nhất Hà Nội, 12/1/2009, http://dothi.vnexpress.net
  3. Quang Thiện, Đổ bộ lên chung cư cao tầng, tháng 12/2003, http://vietbao.vn/
  4. Võ Hương, Chung cư tái định cư, vừa lên ở đã xuống cấp, tháng 11/2003, http://vietbao.vn/

 Nhận bài ngày 08/12/2023; Phản biện: GS. TS. Đỗ Hậu; Ngày duyệt đăng: 14/12/2023

 

Bài viết cũ hơn